VĂN HÓA

Nam Kỳ khởi nghĩa 1940: Bản hùng ca bất diệt của tinh thần yêu nước Việt Nam

Bảo Châu • 23-11-2025 • Lượt xem: 9
Nam Kỳ khởi nghĩa 1940: Bản hùng ca bất diệt của tinh thần yêu nước Việt Nam

Cách đây 85 năm, vào đêm 22, rạng sáng ngày 23.11.1940, trên khắp miền Nam Bộ, ngọn lửa cách mạng đã bừng cháy trong lòng người dân Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, diễn ra từ ngày 23.11 đến 31.12.1940, đã trở thành một trong những mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta, biểu tượng của ý chí kiên cường, tinh thần yêu nước nồng nàn và khát vọng độc lập, tự do của nhân dân Nam Bộ anh dũng. 

Khi ngọn lửa cách mạng bừng sáng giữa lòng Nam Bộ

Tháng 9.1939, Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp ở Đông Dương phát xít hóa bộ máy cai trị, thẳng tay đàn áp phong trào yêu nước. Trong khi đó, phát xít Nhật tràn vào, buộc Pháp phải vừa nhân nhượng vừa tăng cường đàn áp nhân dân ta. Mâu thuẫn dân tộc ngày càng gay gắt, đặt dân tộc Việt Nam trước vấn đề sống còn: hoặc vùng lên giành độc lập, hoặc mãi mãi chịu kiếp nô lệ.

Trong bối cảnh ấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, phong trào cách mạng ở Nam Bộ phát triển mạnh mẽ. Các tổ chức Đảng mở rộng cơ sở, xây dựng lực lượng chính trị, tổ chức đội tự vệ, chuẩn bị cho khả năng dùng bạo lực cách mạng khi thời cơ đến. Phong trào chống bắt lính, chống sưu thuế lan rộng ở cả nông thôn và đô thị, tạo nền tảng cho một đợt đấu tranh mới.

Khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940 - Tranh vẽ minh họa: vov.vn

Đêm 22, rạng sáng ngày 23.11.1940: Nam Bộ vùng lên

Đầu tháng 11.1940, Trung ương Đảng chủ trương hoãn khởi nghĩa do điều kiện chưa chín muồi, song lệnh hoãn không kịp truyền về cơ sở. Đêm 22, rạng sáng 23.11.1940, tiếng súng khởi nghĩa vang lên khắp miền Đông và miền Tây Nam Bộ: từ Gia Định, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Long Xuyên, Rạch Giá đến Cà Mau.

Các lực lượng cách mạng đồng loạt tấn công đồn bốt, phá đường liên lạc, chiếm giữ tạm thời các cơ sở hành chính, làm rối loạn bộ máy cai trị của thực dân Pháp. Ở một số nơi, chính quyền cách mạng được thành lập tạm thời, cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên tung bay trên nóc trụ sở địch - biểu tượng của niềm tin tất thắng và tinh thần tự tôn dân tộc.

Tại Vĩnh Long, chính quyền cách mạng cấp quận được thành lập ở Vũng Liêm. Ở Mỹ Tho, chính quyền cách mạng tồn tại suốt 40 ngày; nhân dân lập tòa án cách mạng, xóa bỏ thuế vô lý, chia thóc gạo cho dân nghèo và nuôi nghĩa quân. Phong trào lan rộng trên 20 tỉnh, thành Nam Kỳ, trở thành cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn nhất kể từ khi thực dân Pháp đặt ách đô hộ.

Lược đồ khởi nghĩa Nam Kỳ. (Ảnh: Ban nghiên cứu lịch sử Đảng TP HCM, khởi nghĩa Nam Kỳ (1940), NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1990)

Máu và lửa - những người con bất khuất

Trước sức mạnh quật khởi của nhân dân, thực dân Pháp mở cuộc đàn áp quy mô lớn, tàn bạo và đẫm máu. Hàng nghìn người bị bắt, bị xử tử, hoặc bị đày ra Côn Đảo, Bà Rá, Tà Lài.

Nhiều lãnh tụ và cán bộ ưu tú của Đảng như Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Nguyễn Hữu Tiến, Phan Đăng Lưu... đã anh dũng hy sinh, để lại tấm gương sáng ngời về lòng trung kiên, bất khuất vì độc lập dân tộc. 

Sự hy sinh của họ không chỉ đánh dấu một giai đoạn bi tráng trong lịch sử, mà còn trở thành ngọn lửa soi đường cho phong trào cách mạng sau này. Chính từ trong máu và nước mắt ấy, tinh thần đoàn kết, ý chí đấu tranh của nhân dân Nam Bộ và cả nước được nhân lên gấp bội, góp phần chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi.

Máu hy sinh của các chiến sĩ trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã thắp ngọn lửa đấu tranh, hun đúc tinh thần đoàn kết và trở thành tiền đề cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 - Ảnh: Tư liệu TTXVN

Từ tiếng súng năm xưa đến bài học hôm nay

Dù không giành được thắng lợi trọn vẹn về quân sự do chênh lệch lực lượng và thiếu điều kiện chín muồi, khởi nghĩa Nam Kỳ vẫn khắc ghi dấu ấn là biểu tượng bất diệt của lòng yêu nước và tinh thần bất khuất của nhân dân Nam Bộ. Nó không phải là sự thất bại mà là một cuộc diễn tập lịch sử bằng xương máu. Trong khói lửa đạn bom, những người dân áo vải, bằng niềm tin sắt đá vào độc lập, tự do, đã sẵn sàng dùng máu mình để chứng minh một sự thật: ý chí giành độc lập của dân tộc Việt Nam là không thể dập tắt.

Cuộc khởi nghĩa là phong trào vũ trang rộng lớn và quyết liệt nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo trước năm 1945, trở thành tiếng súng báo hiệu mở đầu cho kỷ nguyên đấu tranh vũ trang rộng khắp của dân tộc ta và quyết tâm dùng bạo lực cách mạng để giành chính quyền. Dù bị đàn áp đẫm máu, sự hy sinh đã kết tinh thành bài học vô giá về sự chuẩn bị lực lượng, chiến thuật, và tính thời cơ, đồng thời hun đúc ý chí đấu tranh của nhân dân cả nước, góp phần trực tiếp tạo tiền đề cho thắng lợi trọn vẹn của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Đó là lý do mà chỉ ba năm sau khi nước nhà độc lập, nhằm tri ân công lao và lòng quả cảm ấy, ngày 14.1.1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 163-SL truy tặng Huân chương Quân công hạng Nhất cho Đội quân khởi nghĩa Nam Bộ năm 1940. Đây không chỉ là sự vinh danh, mà còn là lời khẳng định thiêng liêng từ vị Lãnh tụ: máu của những người con Nam Bộ đã đổ xuống không hề vô nghĩa, tất cả đã hóa thành ngọn lửa soi đường, dẫn lối cho thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sau này.

Bài học còn lại cho thế hệ hôm nay chính là phải luôn giữ vững và phát huy tinh thần quật cường, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do, đồng thời biến ý chí ấy thành sức mạnh xây dựng đất nước. Sự hy sinh của cha ông đã định hình một chân lý lịch sử: chỉ có đoàn kết, ý chí và niềm tin sắt đá vào sự nghiệp của dân tộc mới có thể tạo nên những kỳ tích vĩ đại.

Khởi nghĩa Nam Kỳ là biểu tượng bất diệt của lòng yêu nước và ý chí giành độc lập của dân tộc Việt Nam - Ảnh: Tạp chí Thời Đại

Tượng đài bất khuất trong lịch sử cách mạng Việt Nam

Trải qua hơn tám thập kỷ, khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 không chỉ là một sự kiện lịch sử, mà đã được lịch sử tạc nên thành một tượng đài tinh thần sừng sững trong tâm khảm dân tộc. Tinh thần ấy vẫn rực sáng, nhắc nhở thế hệ hôm nay về những giá trị cốt lõi đã làm nên hồn cốt Việt Nam: lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quật cường không cúi phục trước cường quyền và khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng.

Ngọn lửa Nam Kỳ năm xưa, dù mang theo bi tráng, đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử là ngọn hải đăng soi sáng con đường cách mạng, khẳng định con đường đấu tranh vũ trang là tất yếu. Ngày nay, ngọn lửa ấy tiếp tục là nguồn năng lượng vô tận, tiếp thêm niềm tin, sức mạnh và khát vọng lớn lao cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ông Nguyễn Thanh Trà đã dùng tiếng mõ Nam Lân thúc giục và cổ vũ nhân dân vùng lên chiếm bót Ngã Năm (xã Tân Thới Nhất, huyện Hóc Môn) trong ngày khởi nghĩa Nam Kỳ - Ảnh: Trung tâm Văn hóa và Triển lãm Thành phố Hồ Chí Minh