VĂN HÓA

Ngọ Môn - tuyệt tác kiến trúc triều Nguyễn

Bài và ảnh: Hà Thành • 12-05-2023 • Lượt xem: 1462
Ngọ Môn - tuyệt tác kiến trúc triều Nguyễn

Ngọ Môn là hình ảnh gắn liền với đất cố đô Huế. Đó là tuyệt tác kiến trúc có giá trị trên nhiều phương diện. Cùng với cầu Trường Tiền, Kỳ Đài, tháp chùa Thiên Mụ, Ngọ Môn là hình ảnh tiêu biểu nhất mang tính biểu tượng của thành phố Huế, của quần thể di tích cố đô Huế - di sản văn hóa thế giới.

Ngọ Môn là cổng chính phía Nam của Hoàng Thành (còn gọi là Đại Nội) – Kinh Thành Huế, cũng được coi là bộ mặt của Hoàng Thành và vương triều phong kiến nhà Nguyễn. Ngọ Môn được xây dựng dưới thời Vua Minh Mạng - vua thứ 2 của nhà Nguyễn. Trải qua 190 năm với những tác động của thời gian, thiên nhiên - khí hậu miền trung khắc nghiệt, và cả khói lửa chiến tranh; nhưng Ngọ Môn vẫn tồn tại và đứng vững tới ngày hôm nay để trở thành một biểu tượng của xứ Huế.

Năm 1833, trong công cuộc quy hoạch xây dựng, nâng cấp tổng thể Hoàng cung, Vua Minh Mạng đã cho xây dựng Ngọ Môn - cổng chính phía nam Hoàng Thành. Tại vị trí này trước có kiến trúc Nam Khuyết Đài, được xây dựng dưới thời Vua Gia Long; trên đài có điện Càn Nguyên, hai bên có hai cửa là Tả Đoan Môn và Hữu Đoan Môn. Tất cả các kiến trúc này đã bị triệt giải để xây dựng Ngọ Môn.

Ngọ Môn nhìn từ góc Đông Nam. Đây là cổng chính vào Hoàng Thành và cũng là bộ mặt của Hoàng Thành vương triều Nguyễn

Ngọ Môn nhìn từ góc Tây Nam. Công trình được xây dựng năm 1833 dưới thời Vua Minh Mạng.

Về tính chất, Ngọ Môn là cổng chính của Hoàng Thành, cũng là hướng chính – phía nam trên phương diện Dịch học. Theo Kinh Dịch, vua luôn ngồi quay mặt về hướng nam để trị thiên hạ. (hướng nam được hiểu rộng là từ đông nam đến tây nam) Kinh thành và Hoàng Thành đều xây dựng trên hướng đó. Tên Ngọ Môn được hiểu là hướng nam, có ý nghĩa về không gian chứ không phải thời gian. Là cổng chính nhưng Ngọ Môn không được sử dụng nhiều vì mang tính nghi thức rất cao. Xưa kia cổng thường đóng kín, chỉ mở trong những dịp đặc biệt như khi Vua ra vào Hoàng Thành có đoàn ngự giá, hay trong những dịp tiếp đón sứ thần ngoại quốc quan trọng của Hoàng Cung.

Ngọ Môn nhìn từ phía Đông. Bên ngoài Ngọ Môn và Hoàng Thành có một hệ thống hào nước bao quanh, có tên là hồ “Ngoại Kim Thủy”

Ngọ Môn nhìn từ phía Tây

Về mặt công năng, Ngọ Môn không chỉ là cổng Hoàng Thành, mà còn là một lễ đài hướng về quảng trường rộng lớn phía trước từ lớp tường Hoàng Thành tới lớp tường Kinh Thành – nơi thẳng trục có kiến trúc quan trọng khác là Kỳ Đài nằm ngay trong tường của Kinh Thành. Lễ đài và quảng trường này là nơi cử hành các cuộc lễ lớn của triều đình như lễ Truyền lô (xướng danh các sĩ tử thi đỗ Tiến sĩ), lễ Ban sóc (phát lịch), lễ Duyệt binh… Ngọ Môn cũng là địa điểm lịch sử - nơi diễn ra lễ thoái vị của Vua Bảo Đại - vị vua cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam, vào ngày 30/8/1945.

Về mặt kiến trúc và cấu trúc, Ngọ Môn là một phức hệ, có thể chia ra làm hai phần chính: Phần nền đài ở phía dưới và phần Lầu Ngũ Phụng ở phía trên. Tuy tính chất và vật liệu xây dựng rất khác nhau nhưng hai thành phần này lại được thiết kế hài hòa với nhau, trở thành một tổng thể thống nhất.

Ngọ Môn có 5 cửa ra vào. Tổng thể được chia làm hai phần chính là phần nền đài phía dưới và lầu Ngũ Phụng bên trên. Từ trong Hoàng Thành có cầu thang hai phía lộ thiên đi lên lầu Ngũ Phụng.

Hệ thống lầu Ngũ Phụng nhìn từ lối lên mặt nền đài phía sau.

+ Hệ thống nền đài:

Hệ thống nền đài Ngọ Môn được xây bằng gạch vồ và đá Thanh, kết hợp kim loại (đồng). Nền đài có mặt bằng hình chữ U vuông góc, lòng hướng ra ngoài Hoàng Thành, cao 5m. Ở phần giữa nền đài có 3 cửa đi song song nhau: Ngọ Môn ở giữa dành cho Vua đi, hai bên là các cửa Tả Giáp Môn và Hữu Giáp Môn dành cho các quan văn võ trong đoàn ngự đạo. Đây là phần được xây dựng bằng đá. Ở trong lòng cánh chữ U mỗi bên có một cửa chạy xuyên qua lòng đài như đường hầm, lối ra – vào bên ngoài vuông góc với đường Dũng đạo (trục chính). Hai lối này gọi là Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn, dành cho quân lính và voi ngựa theo hầu. Phía trong Ngọ Môn (phía Hoàng Thành) có hệ thống thang lộ thiên ở hai bên để đi lên trên nền đài. Xung quanh mặt trên nền đài được bao bởi hệ thống lan can trang trí bằng gạch hoa đúc rỗng tráng men ngũ sắc.

+ Lầu Ngũ Phụng:

Là hệ thống kiến trúc đặt phía trên nền đài. Lầu có mặt bằng hình chữ U tương ứng với mặt bằng nền đài, gồm hai tầng lầu, hai tầng mái. Lầu được dựng trên nền cao 1,14m xây trên đài, có các bậc cấp từ nền đài lên nền lầu. Khung của lầu Ngũ Phụng được làm bằng gỗ lim. Toàn bộ tòa lầu có 100 cây cột chẵn, mỗi bên 50 cây (nếu chia đôi theo trục), trong đó có 48 cây cột xuyên suốt 2 tầng. Hệ thống mái gồm hai tầng mái. Bộ mái giữa cùng với phần mái tương ứng ở hệ thống mái dưới được lợp ngói hoàng lưu ly – là nơi vua ngự; các phần mái khác được lớp ngói thanh lưu ly. Các bờ nóc, bờ quyết, hồi mái được trang trí bằng nhiều chi tiết hoa văn tinh xảo. Ở tầng lầu dưới, hai bên để trống lộ cột; hai lầu này có tên là Tả Dực Lâu và Hữu Dực Lâu. Phần lầu giữa lợp ngói hoàng lưu ly được lắp hệ thống cửa gỗ kính phía trước, các phía còn lại thưng vách gỗ. Đây là chỗ Ngự tọa của Vua khi dự lễ. Ở tầng lầu trên, phía trước chính giữa là hệ thống cửa thượng song hạ bản, xung quanh và phía sau nong ván, trên đó trổ nhiều cửa sổ với hình dáng rất phong phú và đa dạng như hình tròn, hình khánh, hình quạt… Một hệ thống lan can chạy suốt bên ngoài lớp cửa này. Từ tầng lầu dưới lên lầu trên phải đi bằng thang gỗ. Nhưng thực tế lầu trên ít có chức năng sử dụng, mà mang tính chất tạo dáng thẩm mỹ cho công trình nhiều hơn…

Mặt bằng của Lầu Ngũ Phụng tương ứng với hệ thống nền đài hình chữ U, tạo nên một tổng thể thống nhất, hài hòa cân đối; như vòng tay chủ nhân dang ra đón khách vào.

Ngọ Môn nhìn từ trên nền đài tại vị trí Tả Dực Lâu. Hai lầu hai phía thuộc hệ thống lầu Ngũ Phụng được bỏ trống không thưng vách, có tên là Tả Dực Lâu và Hữu Dực Lâu.

Hữu Dực Lâu nhìn từ phía Tả Dực Lâu.

Ngọ Môn là biểu tượng của kỹ thuật và trình độ xây dựng thời bấy giờ. Với khả năng sử dụng và phối hợp nhuần nhuyễn các loại vật liệu bản địa; những người thợ, những nghệ nhân đã làm nên một công trình bền vững hàng thế kỷ. Ngọ Môn cũng là biểu tượng của nghệ thuật kiến trúc – điêu khắc đậm tính bản địa và bản sắc dân tộc; tiêu biểu cho kiến trúc triều Nguyễn ở Huế nói riêng và kiến trúc truyền thống Việt Nam nói chung. Đó là một tuyệt tác, một đỉnh cao của kiến trúc Cung đình Huế; từng là biểu tượng của một Kinh thành vàng son và vương triều phong kiến. Nhưng vượt lên cả yếu tố chính trị và thời cuộc, Ngọ Môn trở thành biểu tượng của Huế, mãi là hình ảnh đẹp không phai của miền cố đô thơ mộng.

Biển đề hai chữ “Ngọ Môn” trên lối đi chính giữa

Ô cửa tròn trang trí hình chữ “Thọ” ở mặt đứng nền đài Ngọ Môn phía trước.

Trang trí hình rồng trên mái lầu Ngũ Phụng.

Trên đỉnh mái lầu Ngũ Phụng có trang trí hình thiên hồ, bờ nóc trang trí lối “Nhất thi nhất họa”.

Lan can phía trên nền đài trang trí gạch hoa gốm và khảm sành sứ.

Trang trí rồng ở bậc thềm lầu Ngũ Phụng.

Nội thất tầng dưới lầu Ngũ Phụng, khu vực trung tâm.

Nội thất tầng dưới Hữu Dực Lâu. Tầng dưới Tả/Hữu Dực Lâu là lầu trống không có vách tường bao quanh.

Những cây cột trung tâm lầu Ngũ Phụng được sơn son thếp vàng và trang trí hình rồng vờn mây.

Ngọ Môn nhìn từ cầu Trung Đạo phía trong Hoàng Thành, trên trục dũng đạo của Kinh Thành.

Ngọ Môn đã trải qua nhiều lần khói lửa chiến tranh, đến nay vẫn còn dấu vết.

Hoàng hôn như gợi về một quá khứ vàng son.

Hình ảnh Ngọ Môn trở thành biểu tượng của Huế, là logo trên biển đường phố ở TP. Huế.

Trải qua thời gian và những thăng trầm thời cuộc, khói lửa chiến tranh; hơn 180 năm, Ngọ Môn vẫn tồn tại, hiện diện và tỏa sáng, trở thành một biểu tượng của đất cố đô.