VĂN HÓA

Nơi lưu giữ hồn Chăm

Bài và ảnh: Hà Thành • 04-01-2024 • Lượt xem: 1032
Nơi lưu giữ hồn Chăm

Cổ viện Chàm hay Bảo tàng Điêu khắc Chăm là một điểm đến không thể bỏ qua của du khách khi tới thành phố biển Đà Nẵng xinh đẹp. Đây không chỉ là một bảo tàng nghệ thuật mà còn là một pho sử về Vương quốc cổ Chăm Pa – từng chứa đựng một nền văn minh rực rỡ.

Lịch sử Cổ viện Chàm

Suốt dải đất miền trung từ Quảng Bình cho tới Bình Thuận, xưa kia đã có một nền văn minh - văn hóa rực rỡ của Vương Quốc Chăm Pa (còn gọi là Chăm, Chàm…). Trải qua bao thăng trầm và biến cố lịch sử, những miền đất ấy đã hòa chung vào Đại Việt, và nền văn hóa Chăm cùng những di sản kiến trúc - điêu khắc đã trở thành một bộ phận cấu thành văn hóa Việt Nam ngày nay. Qua thời gian và chiến tranh, nhiều di sản kiến trúc đã biến mất hoặc trở thành phế tích. Nhưng bên cạnh những tháp Chăm rêu phong trầm mặc còn lại vẫn thi gan cùng năm tháng trên con đường thiên lý Bắc Nam; thì có một nơi hiện lưu giữ những gì tinh túy nhất của nghệ thuật kiến trúc – điêu khắc Chăm, phản ánh một nền văn hóa - nghệ thuật rực rỡ huy hoàng trong lịch sử. Đó là Cổ viện Chàm, nay là Bảo tàng Điêu khắc Chăm – Đà Nẵng.

Toàn cảnh cổ viện nhìn từ lối vào.

Một góc khác của công trình.

Cổ viện Chàm, hay Bảo tàng Điêu khắc Chăm (địa chỉ: Số 02, đường 2-9, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng), được xây dựng theo ý tưởng của nhà khảo cổ người Pháp Henri Parmentier với một đề án của Viện Viễn đông Bác cổ. Công trình được hoành thành vào năm 1919, trở thành là trung tâm lưu trữ và nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc Chăm ở dải đất miền trung. Công trình được thiết kế theo phong cách cổ điển châu Âu pha trộn với những đường nét của kiến trúc Chăm theo gợi ý của Parmentier.

Những đầu trụ trên mái được cách điệu hình ảnh của những tháp Chăm.

Công trình đã qua hai lần cải tạo, mở rộng, song những đường nét cơ bản và phong cách kiến trúc vẫn được tôn trọng và giữ nguyên vẹn.

Lần mở rộng thứ nhất được tiến hành vào giữa thập niên 1930, hoàn thành vào năm 1936. Trong lần cải tạo này, hai khối nhà được xây dựng hai bên, về phía trước công trình cũ để tạo nên hai phòng trưng bày mới, dành cho những hiện vật thu thập được trong giai đoạn 1920-1930. Chính nhà khảo cổ  Henri Parmentier đã đưa ra ý tưởng trưng bày các tác phẩm theo nguồn gốc - địa điểm phát hiện và khai quật; cấu trúc đó cùng tuyến tham quan bảo tàng về cơ bản vẫn giữ nguyên cho tới hiện tại.

Lần mở rộng thứ 2 là năm 2002. Khối nhà mới 2 tầng được xây dựng phía sau nhà cũ, có diện tích 2000m2 trưng bày; 500m2 dành cho kho, xưởng phục chế và các phòng làm việc - nghiên cứu.

Theo ý tưởng trưng bày của nhà khảo cổ Henri Parmentier từ khi thành lập bảo tàng, các không gian trưng bày được phân chia và đặt tên theo nguồn gốc - địa điểm phát hiện, khai quật hiện vật.. Hiện nay Bảo tàng điêu khắc Chăm có các không gian trưng bày sau: Phòng Quảng Trị, Hành lang Quảng Nam, Hành lang Quảng Ngãi, Phòng Trà Kiệu, Phòng Mỹ Sơn, Phòng Đồng Dương, Phòng Tháp Mẫm - Bình Định. Bên cạnh các không gian trưng bày theo địa danh đó bảo tàng còn có không gian trưng bày mở rộng ở khối nhà mới, thường dùng cho các triển lãm ngắn hạn hay chuyên đề.

Phù điêu “Cưỡi ngựa đánh cầu” (Niên đại: thế kỉ VII–VIII; chất liệu: đá sa thạch; nguồn gốc: Thạch An - Quảng Trị). Tác phẩm nguyên là thành bên trái bậc thềm lên cửa tháp.

Trụ cửa (Niên đại: thế kỉ VII–VIII; chất liệu: đá sa thạch; nguồn gốc: Hà Trung - Quảng Trị)

Ngoài cách phân chia hiện vật theo nguồn gốc (không gian trưng bày) thì có nhiều cách khác để phân loại, sắp xếp các hiện vật – các tác phẩm điêu khắc Chăm; như: chất liệu, niên đại, loại hình tác phẩm điêu khắc (phù điêu, tượng tròn, chi tiết kiến trúc), nội dung tác phẩm…

Nơi lưu giữ hồn Chăm

Bảo tàng Điêu khắc Chăm, hay nhiều người vẫn quen gọi là Cổ viện Chàm, thực sự là một trung tâm văn hóa, là nơi lưu giữ hồn Chăm. Bản thân tòa kiến trúc đã chứa đựng những giá trị riêng của nó. Bảo tàng điêu khắc Chăm Đà Nẵng là một trong những bảo tàng ra đời sớm nhất trên lãnh thổ Việt Nam (đầu thế kỷ XX). Công trình có giá trị kiến trúc đặc sắc, đã làm cho nó thoát hẳn khỏi vai trò là nơi trưng bày - một cái hộp chứa đựng. Kiến trúc công trình và những cổ vật - những tác phẩm điêu khắc đã hòa quyện vào nhau. Ở đó người ta có thể cảm nhận thấy hồn Chăm…

Đài thờ Trà Kiệu (Niên đại: Thế kỷ VII–VIII; chất liệu: sa thạch; nguồn gốc: Trà Kiệu – Quảng Nam). Đài thờ này chứa đựng bộ linh vật tiêu biểu Linga-Yoni. Xung quanh bệ thờ là các chạm khắc miêu tả những câu truyện truyền thuyết của Ấn Độ giáo.

Trang trí trên bệ Đài thờ Trà Kiệu.

Tượng thần Siva (Niên đại: thế kỷ XIII–XIV; chất liệu: sa thạch; nguồn gốc: Tháp Mẫm – Bình Định).

Những tác phẩm điêu khắc phần lớn được tạo nên từ chất liệu sa thạch, phản ánh đậm nét đời sống văn hóa, tâm linh, tín ngưỡng của người Chăm xưa; cũng phản ánh những quan niệm và tư duy tạo hình trong điêu khắc, kiến trúc. Phần lớn các tác phẩm (phù điêu, tượng tròn, chi tiết kiến trúc) tạc hình – miêu tả những vị thần gắn liền với những câu chuyện thần thoại trong Ấn Độ giáo, như thần Siva - đấng hủy diệt, thần Vishnu - đấng hòa bình, thần Brahma - đấng sáng tạo - vị thần tối cao... Bên cạnh đó cũng có những tượng nữ thần là vợ của các vị thần trên như thần Uma, Lakshmi, Sarasvati… được tạc với những nét mềm mại uyển chuyển, vô cùng sinh động. Tín ngưỡng phồn thực được thể hiện rất rõ trong các tác phẩm điêu khắc Chăm. Ta có thể thấy rất rõ những chi tiết điêu khắc - kiến trúc được cách điệu hay tả thực hình ảnh bầu ngực của người phụ nữ trên nhiều tác phẩm. Bộ đôi sinh thực khí Linga và Yoni là những tác phẩm điêu khắc ấn tượng, mang nhiều phong cách khác nhau, có tác phẩm cong mềm mại, có tác phẩm lại cách điệu đơn giản, khỏe khoắn.

Đài thờ Mỹ Sơn E1 (Niên đại: Thế kỷ VII–VIII; chất liệu: sa thạch; nguồn gốc: Mỹ Sơn – Quảng Nam). Đây là đài thờ của ngôi đền Mỹ Sơn E1. Đài thờ gồm nhiều phiến đá ghép lại thành một bệ thờ hình vuông. Những phần được thu thập về trưng bày tại Bảo tàng hiện nay gồm 14 phiến đá được chạm khắc tinh tế, miêu tả sinh hoạt của các nhà tu khổ hạnh, nhạc công, vũ nữ và những người ngưỡng mộ.

Mi cửa tháp Mỹ Sơn E1 (Niên đại: thế kỷ VII; chất liệu: sa thạch; nguồn gốc: Mỹ Sơn – Quảng Nam). Đây là một tác phẩm điêu khắc trên một chi tiết kiến trúc tháp – là mi cửa (còn gọi là trán cửa, vòm cửa), nội dung thể hiện một chủ đề quen thuộc trong thần thoại Ấn Độ: Đó là cảnh thần Vishnu sinh ra thần Brahma từ cuống rốn của mình.

Ở những đài thờ, những bệ thờ, hay chi tiết kiến trúc, nội dung trang trí thường là những câu chuyện hay những điển tích trong thần thoại Ấn Độ, được khai triển tạo hình theo phương ngang theo lối kể chuyện, hoặc tạo nên một bố cục có không gian. Ta có thể thấy những chi tiết rất tinh xảo ở Đài thờ Mỹ Sơn, Đài thờ Trà Kiệu hay một tác phẩm mi cửa của tháp Mỹ Sơn.

Những bức phù điêu có nội dung phong phú và đa dạng hơn, ngoài những nội dung gắn liền với văn hóa tâm linh, tín ngưỡng của Ấn Độ giáo, thì nhiều nội dung gần gũi đời sống xuất hiện như cảnh sinh hoạt đời thường, hình ảnh chiến binh, hình ảnh hoa lá chim muông, vũ nữ múa…

Nhiều chi tiết kiến trúc, như trụ cửa, vòm trán cửa, đầu đao, đỉnh tháp… được thực hiện với độ tinh xảo rất cao; có thể coi những bộ phận kiến trúc này như một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc độc lập.

Vũ nhạc triều đình (Niên đại: thế kỷ VII; chất liệu: sa thạch; nguồn gốc: Mỹ Sơn – Quảng Nam) Đây là phiến đá gác ngang phía trên cửa đi để xây tiếp lên phần vòm cửa (được gọi là mi cửa, dầm cửa hay lanh-tô), được tìm thấy tại tháp Mỹ Sơn E4.

Thần Ganesa  (Niên đại: thế kỷ VII; chất liệu: sa thạch; nguồn gốc: Mỹ Sơn – Quảng Nam) Ganesa là vị thần may mắn. Theo tín ngưỡng, người ta thường cầu cúng thần trước khi tiến hành các công việc quan trọng để mong kết quả tốt lành.

Thần Gác cửa  (Niên đại: thế kỷ IX-X; chất liệu: sa thạch; nguồn gốc: Đồng Dương - Quảng Nam).

Bồ tát Tara (Niên đại: thế kỷ IX-X; nguồn gốc: Đồng Dương - Quảng Nam). Đây là tượng đồng lớn nhất và là một trong số rất ít tượng đồng của nghệ thuật điêu khắc Chăm.

Có thể nói, những tác phẩm điêu khắc Chăm nơi đây là những kiệt tác, bởi chúng có giá trị cao về nghệ thuật tạo hình, phong phú về nội dung, độc đáo về chất liệu. Mỗi tác phẩm đều có giá trị riêng, nhưng tất cả lại có mối quan hệ và sự kết nối để tạo nên một giá trị to lớn, tạo nên hồn Chăm Pa nơi cổ viện. Và hơn thế nữa, những tác phẩm ấy đã, và đang chứa đựng cả một nền văn hóa - văn minh rực rỡ trong lịch sử của một dân tộc. Hiện nơi đây lưu giữ 6 hiện vật - tác phẩm đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia, đó là: Đài thờ Mỹ Sơn, Đài thờ Trà Kiệu, Đài thờ Đồng Dương, Tượng Thần Ganesha, Tượng linh thú Gajasimha và Tượng Bồ tát Tara.

Đài thờ (Niên đại: thế kỉ XII; chất liệu: đá sa thạch; nguồn gốc: Bình Định).

Hình ảnh bầu vú người phụ nữ xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm điêu khắc Chăm, thể hiện ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực và xã hội mẫu hệ.

Những không gian lưu dấu hồn xưa.