VĂN HÓA

[Câu chuyện Bảo tàng] Kỳ 2: Ký ức dân tộc Việt Nam trong lòng bảo tàng

Team Diên Vĩ - Tuấn Kiệt • 23-07-2025 • Lượt xem: 908
[Câu chuyện Bảo tàng] Kỳ 2: Ký ức dân tộc Việt Nam trong lòng bảo tàng

Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, lịch sử dân tộc Việt Nam là bản trường ca của những cuộc đấu tranh kiên cường và khát vọng giữ gìn cội nguồn. Trong hành trình ấy, bảo tàng hiện lên như một “ngôi đền ký ức”, lưu giữ tinh thần bất khuất và bản sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em. Không chỉ khắc họa dòng chảy quá khứ, bảo tàng còn lưu giữ những tinh hoa mỹ nghệ và dấu ấn văn hóa đậm đà bản sắc: từ họa tiết chạm khắc, tranh dân gian đến trang phục, nhạc cụ, nghi lễ. Mỗi hiện vật là một lát cắt văn hóa, góp phần khẳng định Việt Nam chứa đựng kho tàng di sản phong phú không chỉ trong khu vực mà còn trên phạm vi thế giới.

[Câu chuyện Bảo tàng] Kỳ 1: Bảo tàng - Không gian gìn giữ ký ức và câu chuyện văn hóa


Tiếp nối kỳ 1 với cái nhìn khái quát về bảo tàng trên thế giới như không gian gìn giữ ký ức và câu chuyện văn hóa, kỳ 2 của chuỗi “Câu chuyện Bảo tàng” sẽ khám phá nguồn gốc hình thành các bảo tàng Việt Nam. Nơi đây không chỉ ghi dấu những thăng trầm của lịch sử mà còn gìn giữ vẻ đẹp tinh thần và bản sắc văn hóa của một dân tộc giàu truyền thống.

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia - ‘hậu thân’ của bảo tàng đầu tiên tại Việt Nam

Vào những năm đầu của thế kỷ XX, khi khái niệm “bảo tàng” còn khá xa lạ với người Việt, chính quyền Pháp đã thành lập Viện Viễn Đông Bác cổ (École française d'Extrême-Orient, gọi tắt là EFEO), tiền đề cho sự ra đời của Bảo tàng Nghệ thuật Đông Dương vào năm 1910. Đến năm 1932, bảo tàng được mang tên Louis Finot, trở thành nơi lưu giữ và giới thiệu các bộ sưu tập cổ vật tiêu biểu của nhiều nền văn hóa Á Đông, trong đó có Việt Nam.

Các tầng lớp nhân dân đến tham quan Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia) sau ngày khánh thành, tháng 1 năm 1959. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Với kiến trúc kiểu Pháp cùng nội dung trưng bày mang đậm dấu ấn khảo cổ học, Bảo tàng Louis Finot đã mở đầu cho hành trình gìn giữ di sản bằng hình thức bảo tàng hiện đại trên đất Việt.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, tiền đề cho sự kiện ngày 16.5.1955, thời điểm đánh dấu việc Pháp rút hết quân khỏi miền Bắc (đảo Cát Bà, Hải Phòng), khép lại thời kỳ đô hộ và xác lập quyền tự chủ hoàn toàn trên nửa phần đất nước, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Nhà nước ta tiếp quản bảo tàng Louis Finot và chuyển đổi nội dung từ mỹ thuật sang lịch sử. Năm 1958, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam chính thức ra đời, đánh dấu bước ngoặt quan trọng: lần đầu tiên, một bảo tàng lớn được xây dựng, vận hành bởi người Việt, với sứ mệnh tái hiện dòng chảy lịch sử dân tộc từ thời tiền sử đến giữa thế kỷ XIX. Chỉ một năm sau, vào tháng 1.1959, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam được thành lập, tập trung trưng bày các giai đoạn cận hiện đại, đặc biệt là các phong trào cách mạng, đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Bảo tàng Lịch sử quốc gia khai mạc trưng bày chuyên đề “Buổi đầu của nền văn hóa cổ Việt Nam- Bình minh trên sông Hồng” tại Bảo tàng quốc gia Hàn Quốc, tháng 4 năm 2014. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Hai bảo tàng này đã song hành trong hơn nửa thế kỷ, tạo nên hai mạch nguồn xuyên suốt của dòng chảy ký ức dân tộc. Đến năm 2011, theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, hai đơn vị chính thức được sáp nhập, trở thành Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Sự hợp nhất không chỉ mang ý nghĩa tổ chức, mà còn thể hiện tầm nhìn chiến lược trong việc xây dựng một thiết chế bảo tàng quy mô quốc gia nhằm quy tụ các giá trị lịch sử, văn hóa và tinh thần của dân tộc Việt Nam qua các thời kỳ.

Bảo tàng Lịch sử quốc gia và Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng tổ chức khai quật khảo cổ di tích Gò Cấm Mít, Hòa Vang, Đà Nẵng, năm 2012. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. 

Từ dấu ấn của thời kỳ thực dân đến sự chủ động trong gìn giữ bản sắc sau độc lập, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ngày nay không chỉ là nơi lưu giữ hiện vật, mà còn là không gian ký ức, mang giá trị tri thức và là biểu trưng sống động cho hành trình bảo tồn di sản Việt Nam trong thời đại mới.

Nhiều bảo tàng ấn tượng khác được hình thành từ Bắc vô Nam 

Kể từ sau khi Bảo tàng Louis Finot xuất hiện, nhiều bảo tàng khác tại Việt Nam cũng từ đó ra đời, trải dài từ Bắc vào Nam và góp phần định hình diện mạo bảo tàng Việt Nam hiện đại. Tại Hà Nội, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam thành lập năm 1966, được coi là thiết chế nghệ thuật quốc gia đầu tiên, nơi lưu giữ và trưng bày các tác phẩm mỹ thuật cổ cùng những sáng tác đương đại độc đáo. Không gian trưng bày khéo léo kết hợp giá trị truyền thống với công nghệ tiên tiến, vừa đáp ứng nhu cầu nghiên cứu chuyên sâu, vừa mang đến trải nghiệm sống động cho công chúng.

Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Ảnh: Internet

Kiến trúc độc đáo cùng nhiều tác phẩm nghệ thuật đặc sắc được trưng bày trong Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Ảnh: Internet

Ở miền Trung, Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế tỏa sáng như một viên ngọc cố đô với hơn 2.000 hiện vật triều Nguyễn, từ trang phục hoàng gia, trang sức quý giá đến họa tiết cung đình tinh xảo. Nơi đây không chỉ có giá trị khảo cứu mà còn khơi dậy vẻ đẹp nghệ thuật cung đình đặc trưng của vùng đất.

Bảo vật được trưng bày trong Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế. Ảnh: Báo Lao động.

Hiện vật phục chế Hoàng bào Hoàng hậu thời Nguyễn. Ảnh: TTXVN

Đôi hài của vua Bảo Đại. Ảnh: TTXVN

Vào đến miền Nam, Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh ghi dấu ấn hơn 90 năm kể lại hành trình phát triển của Sài Gòn và vùng Gia Định qua nhiều giai đoạn biến động, đồng thời tái hiện sắc thái văn hóa và kinh tế phương Nam vô cùng ấn tượng.

Bảo tàng Lịch sử TP.HCM là bảo tàng đầu tiên ở Nam Kỳ, biểu tượng của Sài Gòn với hơn 90 năm lịch sử. Ảnh: Internet.

Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh ghi dấu những thời kỳ vang bóng. Ảnh: Internet

Không chỉ tập trung ở những thành phố lớn, nhiều tỉnh thành như Quảng Ninh, Khánh Hòa, Nghệ An… cũng xây dựng những bảo tàng mang dấu ấn riêng, từ các thiết chế chuyên đề đến mô hình tổng hợp. Những bảo tàng này không chỉ gìn giữ hiện vật đặc trưng của mỗi vùng miền, mà còn trở thành trung tâm giáo dục cộng đồng và điểm đến văn hóa hấp dẫn.

Kế thừa và hình thành nên xu hướng phân loại bảo tàng ở Việt Nam 

Trong dòng chảy phát triển của hệ thống bảo tàng trên thế giới, việc phân loại mô hình trưng bày không chỉ là công việc về chuyên môn, mà còn thể hiện cách mỗi quốc gia gìn giữ di sản lịch sử, định vị bản sắc và lan tỏa giá trị văn hóa cho dân tộc. Trên nền tảng đó, hệ thống bảo tàng quốc tế hiện nay thường được chia thành bốn nhóm cơ bản: 

  • Bảo tàng Lịch sử - Xã hội
  • Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên 
  • Bảo tàng Nghệ thuật 
  • Bảo tàng Dân tộc học 

Mỗi loại hình tương ứng với một hệ tri thức chuyên biệt, có đội ngũ nghiên cứu sâu rộng và hướng đến mục tiêu phục vụ công chúng thông qua các trải nghiệm văn hóa - khoa học đa chiều.

Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam được rất nhiều bạn trẻ quan tâm. Ảnh: Internet

Tại Việt Nam, sự hình thành và phát triển của bảo tàng là kết quả của quá trình giao thoa giữa ảnh hưởng quốc tế và nhu cầu nội tại của đất nước. Từ thời kỳ thuộc địa, mô hình bảo tàng kiểu Pháp, điển hình là Bảo tàng Louis Finot (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) đã đặt nền móng cho các thiết chế khảo cứu, trưng bày cổ vật. Các cuộc cách mạng xuyên suốt chiều dài lịch sử giải phóng dân tộc cũng góp phần định hình xu hướng bảo tàng lịch sử cách mạng, bảo tàng quân sự,... với trọng tâm là giáo dục chính trị và tư tưởng. Những bảo tàng như Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam... không chỉ lưu giữ hiện vật chiến tranh mà còn trở thành biểu tượng tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

Bảo tàng Báo chí Việt Nam là nơi kể chuyện lịch sử báo chí bằng hiện vật. Ảnh: Internet

Về hình thức, hệ thống bảo tàng Việt Nam hiện nay cơ bản đã tiếp cận được với hệ thống phân loại của thế giới, đồng thời có sự điều chỉnh linh hoạt phù hợp với đặc điểm lịch sử, xã hội và văn hóa trong nước. Theo chương V, điều 64 Luật Di sản văn hóa, hệ thống bảo tàng Việt Nam được phân chia theo 2 hình thức chính: bảo tàng công lập và bảo tàng ngoài công lập. Mỗi loại hình đáp ứng một nhu cầu nhất định, từ giáo dục truyền thống, bảo tồn văn hóa tộc người cho tới tôn vinh thành tựu chuyên môn và phát triển du lịch vùng miền.

Bảo tàng Áo Dài là bảo tàng chuyên đề, nơi trưng bày câu chuyện về chiếc áo dài Việt Nam suốt chiều dài lịch sử đất nước. Ảnh: Internet

Trong đó, các bảo tàng lịch sử cách mạng vẫn chiếm phần lớn, phản ánh nhu cầu khắc ghi quá khứ dựng nước, giữ nước và tri ân những người có công. Đây là lý do nhiều bảo tàng cách mạng chẳng hạn Bảo tàng Hồ Chí Minh hay các bảo tàng tổng hợp cấp tỉnh được ưu tiên đầu tư, phần nào tương đồng với mô hình bảo tàng quốc gia trên thế giới. Đồng thời, với 54 dân tộc cùng sinh sống, các bảo tàng dân tộc học, tiêu biểu như Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc giới thiệu và bảo tồn bản sắc văn hóa đa dạng của cộng đồng.

Tại các thành phố lớn ở Việt Nam, hệ thống bảo tàng chuyên ngành và bảo tàng nghệ thuật đang từng bước chuyển mình theo hướng chuyên môn hóa. Các bảo tàng như Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Phụ nữ,… thể hiện nỗ lực tiếp cận mô hình bảo tàng đương đại quốc tế. Cùng với đó, sự xuất hiện của các bảo tàng tư nhân đã mở rộng không gian bảo tồn văn hóa đến các tổ chức và cá nhân, phản ánh tinh thần đổi mới và tính tương tác của thời kỳ hậu hiện đại.

Bảo tàng Việt Nam trong kỷ nguyên số 

Thế giới số đang thổi luồng gió mới vào không gian bảo tàng, khi mỗi hiện vật không còn đứng im trong khung kính trưng bày mà còn hiện hữu ở rất nhiều nơi với đa dạng hình thức. Chỉ cần một cú quét QR Code trên điện thoại, du khách có thể tự do chọn ngôn ngữ, lắng nghe câu chuyện xoay quanh từng hiện vật có trong bảo tàng. Cách tiếp cận này không chỉ phá vỡ rào cản ngôn ngữ mà còn khơi gợi sự háo hức, nhất là đối với thế hệ trẻ và những vị khách nước ngoài tìm kiếm trải nghiệm chủ động, cá nhân hóa.

Bảo tàng chuyển mình thời công nghệ số. Ảnh: Báo Nhân Dân điện tử

Không dừng lại ở lớp mã vạch thông minh, công nghệ 3D và thực tế ảo (VR) đã đưa trải nghiệm lên một tầm cao mới. Những mô hình số hóa cho phép khám phá tác phẩm từ mọi góc độ, đến gần tới từng đường nét tinh xảo. Tại vài bảo tàng quân sự, trò chơi mô phỏng lái xe tăng hay bước chân vào trận đánh VR khiến quá khứ vang vọng sống động như đang diễn ra trước mắt, đồng thời thắp lên cảm xúc và sự thấu cảm với những chặng đường gian khó của lịch sử.

Tiếp nối xu hướng ấy, nhiều bảo tàng đã thiết lập các sàn diễn trực tuyến, mở cửa “tham quan” 24/7 qua màn hình cảm ứng và audio guide đa ngôn ngữ. Người xem có thể tự điều chỉnh lộ trình, từ việc tìm hiểu bối cảnh cho đến khám phá chi tiết từng hiện vật, mà không lệ thuộc vào bất cứ lịch trình cố định nào. Hình thức này góp phần biến bảo tàng thành không gian học tập và giải trí linh hoạt, xóa nhòa khoảng cách giữa di sản và công chúng.

Ứng dụng công nghệ thông tin tại nhiều bảo tàng ở Việt Nam. Ảnh: Internet

Tuy vậy, câu chuyện số hóa cũng đặt ra bài toán không nhỏ về nguồn lực và nhân lực. Việc đầu tư hạ tầng ảo, duy trì hệ thống và đào tạo đội ngũ vận hành đòi hỏi cả thời gian lẫn kinh phí; trong khi bảo tàng vẫn giữ sứ mệnh bảo tồn hiện vật vật lý. Dẫu vậy, chính sự thử thách ấy lại thúc đẩy các đơn vị nỗ lực hơn trong việc cân bằng giữa công nghệ và truyền thống, mở ra cơ hội để bảo tàng Việt Nam tiếp tục là nhịp cầu kết nối quá khứ với tương lai, truyền cảm hứng và giữ mãi ngọn lửa yêu di sản trong lòng mỗi thế hệ.


Có thể bạn chưa biết

Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cả nước hiện có 162 bảo tàng, trong đó có 126 bảo tàng công lập và 36 bảo tàng ngoài công lập; hiện đang lưu giữ hơn 3 triệu hiện vật phản ánh toàn diện về đất nước và con người Việt Nam trong tiến trình lịch sử, trong đó có tới 120 hiện vật, nhóm hiện vật là bảo vật quốc gia (trong tổng số 164 bảo vật quốc gia).


 

Bài viết có tham khảo một số tài liệu: 

- “Trưng bày và đổi mới trưng bày (phần 1)” Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

- Luật số: 45/2024/QH15 - Luật Di sản văn hóa