Đọc ‘Vỉa từ’ Nguyễn Hữu Hồng Minh: Thi ca, Kịch nghệ và sự Chuyển hóa Bản thân

Từ những bài thơ đầu, ngôn ngữ thi ca Vỉa Từ của Nguyễn Hữu Hồng Minh rất lạ lùng. “Thơ là thuốc độc của quỉ” anh viết. Tôi nghĩ đây là chữ viết của kẻ say, đầy ẩn dụ, đầy khai phá, đầy thử nghiệm - câu này mâu thuẫn câu kia, ý nầy chạm ý khác, nghịch ngẫu và nghịch ngợm lan tràn. Tôi cố bình tâm lắng đọc để nghe ngôn từ đối thoại và độc thoại đầy thi ca của tác giả... Tin và bài liên quan:  Nguyễn Hữu Hồng Minh: Cầu vồng của thơ 'Mặt trời soi vết thương yêu’ - đêm nhạc mới của Nguyễn Hữu Hồng Minh

“Có những cuộc Cách mạng chỉ cần có một người! Đó là cuộc Cách mạng Bản thân.”

(Nguyễn Hữu Hồng Minh – Trích Vỉa Từ)

Sài Gòn, tháng Ba, 2018. Tôi gặp lại Nguyễn Hữu Hồng Minh trong lần ra mắt sách ở Thảo Điền. Chàng thi sĩ lãng tử nầy, từ ngoại hình đến phong cách, lúc mô cũng gây nhiều ấn tượng cho người lâu ngày mới gặp. Sau khi xong việc ra mắt sách, chúng tôi kéo đến một quán nhậu bên kia đường nằm sát ngay Xa lộ. Vừa uống bia, nhấm thịt bò nướng, tôi lắng nghe chàng Thi sĩ nói chuyện – trong tiếng ồn ào xe cộ và hàng trăm thứ âm thanh điếc tai khác. Ôi thôi! Dân Việt ta hình như có một thói nghiện ngập – nghiện tiếng ồn.  Đi đâu cũng âm thanh inh ỏi, chói tai. Đang nói chuyện với người đối diện nhưng vẫn không nghe ai nói chi cả. Từ đám cưới, quán nhậu, đến chánh điện chùa, đến khu xóm chật hẹp, hình như dân ta không thể sống thiếu âm thanh ở mức độ điếc tai, dồn dập. Chúng ta không thể chịu đựng được sự im lặng.

Trong cơn sóng âm thanh ngập tràn ấy, Nguyễn Hữu Hồng Minh trao tặng tôi tập thơ mới của anh. Vỉa Từ. Tôi đem về nhà để đó.  Đi vô, đi ra thư phòng, bìa cuốn thơ màu đỏ chói như thách thức, mời gọi tôi mở ra đọc nó. Hơn một năm sau thì tôi mới mở ra đọc – một mạch, từ đầu đến cuối, không nghỉ.  

Từ những bài thơ đầu, ngôn ngữ thi ca Vỉa Từ của Nguyễn Hữu Hồng Minh rất lạ lùng. “Thơ là thuốc độc của quỉ”  anh viết. Tôi nghĩ đây là chữ viết của kẻ say, đầy ẩn dụ, đầy khai phá, đầy thử nghiệm – câu nầy mâu thuẫn câu kia, ý nầy chạm ý khác, nghịch ngẫu và nghịch ngợm lan tràn. Tôi cố bình tâm lắng đọc để nghe ngôn từ đối thoại và độc thoại đầy thi ca của tác giả, và có cảm tưởng như rằng mình đang được mời ăn một mâm cỗ đầy sự kiện nhân gian rất bình nhật được bày biện lại, dàn dựng trong một khung cảnh khác, một giàn ngôn từ, một cung cách biểu đạt lạ lùng.  Nó giống như một hoạt cảnh tự diễn, tự khai quật chiều sâu của thi ca và ngôn ngữ  phát đi từ một nỗi đau làm người – như thế nào đó – đang được chuyển hóa bằng ý chí nghệ thuật. 

Tôi tự hỏi, có phải nghệ thuật, trong đó có thi ca, là một năng ý vượt thoát cuộc đời bằng cách dựng lại thế gian qua cảm nhận của thi sĩ?  Vậy nhưng tại sao chúng ta lại muốn chứng kiến và tiêu thụ lại những nỗi đau từ cuộc sống mà chính ta muốn thoát ly? 

Thi phẩm “Vỉa từ” và tập truyện ngắn “Ổ thiên đường” của Nguyễn Hữu Hồng Minh đã được nhiều nghiên cứu sinh chọn làm đề tài bảo vệ thành công luận văn Cao học, Thạc sĩ…thời gian qua.  

Nghệ thuật thi ca – trên bình diện biện chứng – là một ý chí tiêu hóa những sự thể cuộc đời.  Đồng thời nó cũng là một ước muốn phủ định những sai lầm của con người nhằm tìm đến một khả thể giải thoát cho tâm thức – mà trong đó, thi sĩ là một cơ năng tiêu thụ và chuyển hóa cảm thức.  Mỗi bài thơ là một sự cố phát động bởi guồng máy thao diễn văn chương nhằm đưa tâm hồn độc giả từ thân xác và ý thức lên cõi tinh thần.  Vì vậy, bài thơ nào vốn chỉ sử dụng tình cảm bi thương ai oán làm động cơ thưởng ngoạn duy nhất thì nghệ thuật thi ca đã bị nhận chìm ở mức độ thể xác và xúc cảm tầm thường và giới hạn.  Ở đó, cảm xúc thi ca chỉ còn thuần là gánh nặng nhục thân. 

Vai trò thi sĩ là của biểu đạt ngôn từ – và nội dung thi ca là tiếng chuông tỉnh thức về cái đẹp trong những gian lao ở bản thân và sự đời.  Qua ý chí nghệ thuật, con người có khả năng vượt qua khỏi những hệ luỵ tiêu cực trong tình cảm bình thường.  Vì thế, mỗi bài thơ hay vở kịch là một thức ăn được nấu nướng từ gạo rau thịt cá cuộc đời bằng ngọn lửa thẩm mỹ.  Sự thể khổ đau và nhầy nhụa nơi trần gian – hay chính bản thân – phải được chuyển hóa và nâng cao lên tầm mức tinh thần. Vì thế, thơ – hay nghệ thuật và văn chương nói chung –  không thể dừng ở chỗ khơi động tình cảm – mà là một hoạt cảnh tinh thần trong ý chí muốn chuyển hóa thế gian thành một đối thể cho cảm xúc được thăng hóa.  Từ đó, hy vọng rằng, người đọc thơ, nghe nhạc, đọc văn, hay xem kịch, sẽ có cơ hội nhìn lại chính mình bằng sự thanh lọc sự kiện và cảm thức qua âm điệu, cấu trúc và ngữ văn.   

Khi thưởng thức thi ca, cảm thụ phải được đứng ngang hàng với trình độ tri thức.  Chỉ khi ấy thì giá trị nghệ thuật mới được tiếp nhận đúng cách.  Thơ và kịch nghệ cũng như là biện luận (rhetoric) mà Aristotle – trong cuốn Rhetorica (Tu Từ) – có bàn đến: Tất cả đều nhằm đến chủ đích khơi động tình ý bởi ngôn từ và phương thức chuyển đạt.  Nói theo Arthur Danto trong cuốn The Transformation of the Common Place (Sự chuyển hóa của chốn bình thường) thì, một thi sĩ, cũng như là một biện luận gia, cả hai đều là những kẻ có khả năng “mua được đúng tầm mức một nội dung cảm thức trên cơ sở khái niệm” về sự thể sinh hữu.   Nếu bài thơ chỉ có khơi động tình cảm bi đát, tủi thân, mỉa mai tiêu cực, tuyệt vọng thì nó là một sự sai lầm, một thất bại.  Thi ca phải làm cho kẻ thưởng ngoạn nhìn lại cảm thức của mình để mà thăng hoa nó từ cảm nhận thẩm mỹ trong sự thông hiểu bằng tri kiến.

Qua thi ca là chức năng giáo hóa cảm thức. Và con người Việt Nam cần phải được giáo hóa về cảm xúc.

Ðàn ông Việt Nam cần phải thăng hóa lên khỏi bản chất thô lỗ, ty tiện, nóng nảy, bạo tâm.  Phụ nữ Việt cần phải được thăng hóa những cảm xúc đầy bi ai, tủi phận, than thân, tiêu cực, bi luỵ.  Cái khôn ngoan của nam giới Việt không cần đến cái dữ dằn như lửa rơm chỉ được vay mượn làm nhiệt lượng cho ngã mạn và anh hùng.  Và cái đẹp và thông minh của phụ nữ Việt không cần được chuyên chở và vay muợn từ những tâm chất yếu đuối với quá nhiều bi ai.  

Ngày nay, thi ca, kịch nghệ cũng như là văn chương, âm nhạc của người Việt, bất cứ ở đâu, vẫn còn mãi cứ vinh quang tính chất thô lỗ, trẻ con, mơ hồ, bất lực và yếu đuối nơi con người Việt Nam.  Một luồng văn hóa – kể cả thơ văn – chỉ có ý muốn và khả năng chìu khách bằng sự vay mượn tâm chất ủy mị, mỉa mai, và bi đát của độc giả thì chỉ là một luồng văn hóa vong thân.  Nó không đi đến đâu cả – ngoài việc đưa tất cả vào cánh cửa địa ngục do chính mình dựng nên. 

GSTS, Nhà nghiên cứu Triết học Nguyễn Hữu Liêm cùng bạn bè: nhà thơ Lê Minh Thiên Khoa (trái), Bùi Chát (phải) trong ngày ra mắt phát hành tác phẩm “Thời tính, hữu thể và ý chí: Một luận đề siêu hình học” (NXB Đà Nẵng & Domino Books, 2018)

Nếu chúng ta quan sát kỹ đến tinh thần văn hóa Việt Nam bây giờ ở trong và ngoài nước thì nhìn đâu cũng chỉ thấy và nghe những gì bi đát, vô vị.  Khi văn thơ Việt Nam muốn ra khỏi bi đát thì vướng vào những kĩ xảo nhạt nhẽo.  Sự dí dỏm làm duyên của các thi sĩ trẻ bây giờ đã quá nhiều lúc biến thơ của họ thành những mẫu chuyện ngây ngô.  Cái đáng nực cười từ cuộc sống, khi qua thi ca, đã trở nên những nỗi buồn cười.  Tính chất bi kịch từ cuộc sống chỉ đi theo độc lộ vào vũng lầy bi hài – mà tinh thần cảm nhận của thi sĩ không đưa chúng lên tầm bi tráng. Thể dạng văn hóa ngôn từ và biểu đạt như thế đã và đang nạn nhân hóa quần chúng thưởng ngoạn và luôn cả chính giới văn nghệ sĩ.  Tất cả đang bị khô cạn và đi vào bế tắc.  Cái vung nào đang úp chặt tất cả chúng ta?

Có lẽ rằng chúng ta không thể phủ nhận hay bỏ quên cái sự thể khách quan đầy khổ đau và bi đát của con người Việt Nam – nhất là trong bối cảnh lịch sử cả trăm năm qua. Nhưng khổ đau nào?  Nguyễn Hữu Hồng Minh có câu trả lời trong thơ của anh: Đó chính là nỗi khổ đau tự trong chính Bản thân.  “Nhiều kẻ quên mình có một Bản thân! Hãy lắng nghe Thân thể và đầu tư cho nó! Cuộc cách mạng từ đấy!”  Càng đọc sâu Vỉa Từ, tôi thấy thi ca của Nguyễn Hữu Hồng Minh như từng ly rượu đắng và mạnh.  Nó toát lên một cái gì đó đơn giản và khác – đầy cuồng nộ và lơ đảng, hoang mang – mà tôi không suy nghĩ ra. 

Nhưng từ các giòng thơ như là các màn hoạt cảnh độc thoại của Nguyễn Hữu Hồng Minh, tôi cảm nhận được một nỗi cô đơn mòn mỏi về cơ sự làm người Việt Nam trong suốt thế kỷ qua: dù có bao nhiêu biến động, bao nhiêu tang thương, bao nhiêu thay đổi, rốt cuộc, không có gì mới hay lạ gì để được nghệ thuật thi ca Việt chuyển đạt cả.  Cái “khác” của sự kiện làm người Việt không đem được cái gì “mới” cho ý thức.  Và giới đàn ông, phụ nữ Việt trong sự thể làm người Việt Nam ở khắp nơi – với tất cả những ồn ào rỗng tuếch – tựu chung vẫn chỉ là một chuỗi nhàm chán vô vị.   

Nhớ lại, bữa đó, khi đã uống ngà ngà say với chàng Thi sĩ trong âm thanh cuồng bạo nơi xứ nhiệt đới đầy cám dỗ và ô nhiễm nầy, tôi mơ hồ vỡ lẽ ra rằng:  Dân tộc Việt Nam, nhìn từ một góc độ biểu tượng tinh thần, vẫn đang còn bị  rơi lạc vào trong một áng thơ bi hài kịch. Ở nơi thiên trường thi bất tận trong sử tính đó, kẻ diễn, người xem, kẻ làm thơ cũng như người đọc, tất cả đều còn đang vật vã trong một cơn say vô thức với cuộc đời. 

Và đó có lẽ là cái hay sâu sắc mà tôi cảm nhận được từ các trang thơ của Nguyễn Hữu Hồng Minh.  Tôi mong chàng thi sĩ lãng tử đầy khúc mắc nầy, cũng như chính bản thân tôi, và giới văn chương thi phú Việt, sẽ tiến hành được một cuộc Cách mạng Bản thân – như tác phẩm Vỉa Từ muốn nhắc nhở – để chúng ta cùng nhau thức giấc bước ra khỏi cơn say làm người Việt Nam – vốn đã kéo dài quá lâu.

Nguyễn Hữu Liêm 

(Tiến sĩ, Giáo sư triết học tại San Jose City College, California).

DDVN giới thiệu vài trích đoạn trong thi phẩm “Vỉa Từ”. Sách do nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành 2017. 

Bìa “Vỉa từ” của họa sĩ Nguyễn Tri Phương Đông 

VỈA TỪ 

Nguyễn Hữu Hồng Minh 

 

Ngôn ngữ. Một cái tháp nghiêng của lòng tôi.

Ngữ pháp của nhà thơ là ngữ pháp của quỉ. Anh điều chỉnh lại toàn bộ hệ thống hoặc phải từ bỏ chính nó.

Sự-trương-nở của một bài thơ làm động đậy tâm hồn.

Tại sao tôi phải xài lại các qui tắc của các anh? Tôi có bất qui tắc của tôi.

Chữ có lối rẽ tối tăm như lối rẽ ma quỉ.

Thôi thì Viết. Như chứng kiến được rồi đây sự vắng mặt của mình cũng sẽ nhạt nhẽo và vô nghĩa như thế này.

Luật chơi máu: – Một cuộc đời đổi một Từ. Nhưng phần lớn các cuộc đời đã vứt. Không đáng để đổi chỉ một Từ.

Những bài thơ kinh dị, chữ về từ âm phủ.

Tôi hợp lí trong những bài thơ bất hợp lí.

Nội lực là một màu đen tuyền chuyển động rối loạn. Tiềm lực là những náu hình chực chờ. Nghị lực là một trận chiến ảo.

Với một nhà thơ đôi khi bỏ quên một thành phố như bỏ quên một âm tiết.

Tôi có một Thành-phố -Từ và một Nghĩa-địa-Từ. Tôi thường đi lạc từ nghĩa địa vào thành phố.

Chữ có mắt. Nó đang quan sát nhà thơ ở phía nào đó.

Vâng! Tôi đã tìm ra Từ định dạng cho bài thơ tuyệt mật của tôi. Nhưng chữ ngủ quá sâu, tôi chưa đánh thức nó được.

Thi-pháp-âm-bồi trong thơ hoàn toàn không xuất phát từ ngẫu nhiên. Nó là sự phát triển độc địa của những tiếng kêu theo cấp độ trực giác mất lí trí.

Tôi chưa bao giờ là một Từ-chính-thống. Tôi là một Hoang Từ.

Bài thơ được cứu sống bởi chỉ một từ.

Từ là quặng. Bài thơ là sự đào luyện từ quặng đó.

Nhiều lúc phát rồ tôi thấy chữ thường ngu xuẩn. Không bao giờ diễn đạt nổi tôi.

Muốn sáng tạo được ngôn từ trước tiên phải học cách giải phóng ngôn từ.

Bài thơ là một xác chết. Trên sóng não tôi một chiếc rễ cảm giác bị đứt.

Đôi khi tôi cảm giác Từ tan trong hồn như nước đá lạnh buốt nhưng không thể nào nắm bắt nổi.

Chữ là hạt giống nhưng chính chữ còn là thuốc độc. Quyền năng và kì bí đều ở trong tay kẻ luyện chúng.

Cấu trúc thơ thực sự là một đám khói toả ra từ điếu thuốc gắn trên môi nhà thơ.

Thơ họng súng vô hình ngắm vào điểm nào chưa biết nhưng chắc chắn đạn nã ra là ngôn ngữ.

Độc giả tìm những bài thơ cho tâm hồn mình còn tác giả đơn thuần tìm cách giải phóng tâm hồn mình.

Kìm hãm một bài thơ là kìm hãm một ngòi máu muốn phụt loạn.

Vì tôi tương đối nên những gì tôi viết ra hướng về tuyệt đối.

Một cái không biết. Một cái âm ỉ. Thơ.

Tôi không cố tình giải thích những giấc mơ. Bởi đó là những mảnh đời trong vô thức tôi đã được tìm lại.

Những đường cong của cuộc đời tôi làm gấp khúc thơ tôi.

Thơ chỉ là một trò chơi. Vâng, nhưng là trò-chơi-tù-ngục.

Tâm hồn với bài thơ như ngọn đèn trên biển cả.

Trong thực trạng khốn cùng câu thơ là cứu cánh cuối cùng.

Tại sao những bóng ma chỉ thích tìm kiếm trên tro tàn ? Bởi nó muốn xác định lại lịch sử niên đại của chúng.

Tôi kinh tởm mình. Một tư thế. Ngồi yên ổn. Đít mòn vẹt bê tông, cốt thép.

Càng viết càng thấy sự sống mong manh. Bởi những gì anh chưa kịp nghĩ đã bị cắt đứt.

Vỡ vụn niềm tin trên tay tôi.

Tôi chết. Tôi đã đánh mất chữ trên sa mạc giấy. Tôi sống. Tôi tìm giấy trong sa mạc chữ.

Đời tôi làm được gì đâu. Đời chết rục. Đời buồn. Đời không-khai-thác.

Trong tâm hồn nhà thơ có nhiều oan hồn nhập vào.

Tôi đang sống ư? Không, rõ ràng tôi thấy mình đang chết. Nhưng chính vì tôi ý thức rõ ràng cái chết từng ngày nên tôi đang tìm cách sống.

Chết là bản thể của ý niệm tồn tại.

Tôi cố gắng vẫn không hiểu tại sao mình có thể vượt qua được những cố gắng đó.

Những đoạn đời quá dã man ăn sâu và làm sụp lở bờ bến những đoạn đời thực tại. Thế là xong một cuộc đời.

Nhiều đêm tôi sực tỉnh bởi có một đôi mắt khải vọng trong bóng tối đang nhìn tôi.

Khi anh nói: – “Tôi sẽ kết thúc trong mọi lúc!” vẫn có nghĩa là anh vẫn chưa thể kết thúc được trong lúc này.

Những đoạn đời bệnh hoạn thường được ma quỉ trợ giúp.

Tôi là Tổng thống trong chính phủ thơ ca.

Tôi thường ít bất ngờ với những gì tôi đã viết bởi tôi không tin chính tôi đã viết ra.

Bao giờ với thơ tôi cũng tự phản và nổi loạn.

Tôi tồn tại được bởi chưa bao giờ tôi thiết tha với sự sống. Không rõ khi tôi thiết tha với sự sống cuộc đời còn chật chội như thế nào?

Viết bắt đầu từ gạch bỏ đến gạch bỏ.

Bí mật của nghệ thuật thơ kì diệu ở chỗ các nhà thơ luôn thay đổi sự bí mật này bằng một bí mật khác và tất cả đều cất giấu trong ngôn ngữ.

Thơ hay không thể xác định. Chỉ biết nó vượt ra ngoài anh. Ngoài ngưỡng anh chưa biết.

Ngôn từ không nói. Bởi nói là nói chứ không phải là ngôn từ.

Những ý rời không vô nghĩa. Bởi lẽ những mảnh vụn của thơ sẽ làm tiền đề cho một bài thơ.

Một cuộc đời chắp lại từ những ngày rời. Một bài thơ có thể liên kết lại từ những ý rời.

Ở một nghĩa nào đó Thơ-thực-sự không có chỗ tồn tại.

Để không chết con người chỉ nên sống một thì trong ảo tưởng.

Chúng ta muốn mài cuộc đời mình bằng phấn màu lên tấm bìa thời gian vốn trong suốt.

Nhà thơ: – Quãng lặng nói chuyện với Hố thẳm.

Làm việc triệt để với một Từ thường khó khăn hơn phải làm việc với nhiều Từ.

Một bài thơ viết nháp trên cuộc đời giấy nháp.

Một hôm tôi nhận thấy cuộc sống mình, trang viết không còn điều kì lạ. Đó là sự kì lạ lớn nhất. Tôi không thể tồn tại nếu tôi không kì lạ. Từ đây, tôi sống và viết tất thảy chỉ để tìm điều kì lạ.

Bản thể tôi là sự mơ hồ lớn nhất bao bọc sự mơ hồ chung quanh.

Những gì tôi viết là vô ích ư? Thừa! Tôi đã là vô ích rồi!

Không có bài thơ. Chỉ có hạt thơ. Vùng thơ là sóng từ hạt ấy.

Đền từ hoang lạnh. Tôi lạc xa không thể trở về.

Con đường thường đợi bàn chân nhưng những bàn chân thường từ chối con đường.

Khi tôi chết những câu thơ ấp ủ vẫn còn lặng thinh dưới mồ. Chẳng còn ai đọc nó.

Nghệ thuật thường hướng tới tương lai nhưng cũng có những quan điểm nghệ thuật không phải cho tương lai mà bóp chết tương lai.

Thơ nhiều khi chỉ là những ghi chép lạnh về mặt tinh thần.

Khó khăn của sự Viết là ý tưởng khởi động trong suốt nhưng lại thất lạc đen tối ở đâu đó trên đường về.

Ngày tháng chưng cất trong thơ như rượu ủ hương nồng nàn.

Thơ không thể đánh mất mình trong hình thức. Thơ chỉ ẩn náu trong hình thức. Nhưng chỉ trong một hình thức phù hợp thơ mới chuyển động.

Dưới huyệt mộ nhà thơ, những dự định vẫn còn nở hoa giữa lòng cái chết.

Tàn một đời luyện chữ. Hồn thơ vẫn lang thang đâu đó.

Con người là một kết cấu tha hoá của hy vọng.

Viết thực sự là càng viết càng nghi ngờ điều mình viết.

Cảm xúc thường có màu sắc.

Tôi ở bên ngoài, tôi nhìn bên ngoài. Nghệ thuật tôi đặt ra vượt ra ngoài những giá trị đặt ra trước đó.

Không lí giải nổi sự bất lực câm lặng. Chai sần. Những sóng từ tự đứt đoạn trong lòng nó.

Với thơ, tôi bắt đầu bằng 1 nghĩa. Rốt cuộc tôi không có nghĩa. Tôi tuyệt nghĩa.

Tôi chắc chắn rằng trường nghĩa ở trong thơ là một vùng Tối – Sáng.

Với ngày tháng trôi nổi này, chết ư? Một cảm giác quá quen.

Từ chết. Từ lặng. Từ có vảy. Từ gợi bóng.

Đôi khi chỉ cần một từ đã chôn chặt cả một thời đại hay phục sinh cả một thời đại.

Một cái không ngày tháng. Một cái đứt đoạn. Một cái phản bội. Một cái nghi ngờ thực tại. Thơ.

Mỗi ngày mới đến lại mở những của sổ mới trong tâm hồn tôi.

Tôi ở lâu trên biển và đã lắng nghe sự sôi động dữ dội của biển cả. Những sinh tử thôi miên. Như tiếng tâm hồn tôi. Những suy tưởng lạ chờ làm rõ mặt.

Có những tâm hồn không bao giờ biết hát. Chỉ biết gào rú. Và gào rú chính là tiếng hát.

Chính xác như giấc mộng. Vâng! Ai dám bảo rằng giấc mộng không chính xác?

Nghệ thuật đích thực, Thép chưa đủ. Cần có Muối trong Thép.

Ai cho rằng tôi vô vọng đào những chiếc rễ thơ. Tôi đang tìm nguồn mạch của chiếc rễ sự sống.

Nhà thơ đứng yên trong cái xoay vần của ngôn từ.

Thật kì lạ. Tôi quay quắt trong mỗi khoảnh khắc sống nhưng tại sao tôi vẫn bất toàn trong một trạng thái sống.

Từ đã chết trong Từ để khẳng định Từ.

Người làm nghệ thuật, cuối cùng chính những cái ngã rẽ mới quan trọng.

Phải chăng tôi càng viết lại càng bày cuộc nghèo nàn của chính mình?

Nhiều khi Thi tứ quá nặng. Tôi không thể mang nổi.

Cuộc đời trụi trần. Tôi buồn nỗi-buồn-trọc-lóc.

Tôi chủ trương nghệ thuật không ý thức. Nghệ thuật man dại.

Mẫu bìa Thi phẩm “Vỉa từ” của họa sĩ Lê Sa Long. 

Những cánh cửa nghệ thuật thường không đóng. Nhưng ít kẻ tìm ra nó.

Tôi yêu thứ nghệ thuật non tơ, thứ nghệ thuật mới mở mắt. Nó làm sửng sốt những ông già.

Với kẻ say rượu dưới bầu trời là một hầm rượu. Với nhà thơ dưới bầu trời là một cuộc-đời-viết-nháp.

Tâm hồn chết. Lá cờ trắng vẫn bay.

Nghệ thuật là cuộc đảo chánh các thế hệ.

Từ mòn, trong giấc ngủ tôi thấy, nó vẫn mang những đôi cánh màu sắc bay nhảy hoang lộng.

Từ bùng nổ thành thế giới.

Giao hưởng của Từ là tấm thảm âm thanh.

Khi tôi chết sóng-từ-tôi vẫn được truy cập ở đâu đó.

Tâm hồn tôi như miếng giấy thấm, bao ngày tháng, bao nỗi buồn hút hết lên đó. Câu thơ tôi như cánh buồm, chở tâm hồn ra đại dương vô tận.

Cuộc đời hắn như một tấm giấy nhàu nên bản thể hắn chứa đựng toàn những điều tối tăm, nhàu nhò, gãy đổ.

Tôi càng chôn chặt. Từ càng mở rộng.

Thơ làm nên trường phái trong khi chính trường phái giết thơ.

Nghệ thuật thơ chính là tôi mở một cánh cửa trong một cánh cửa của một cánh cửa.

Đi trong tuyên ngôn tôi đã lạc ngôn.

Từ mắc kẹt trong những tường hồn lạnh.

Trong ngày tháng tôi vẫn lẩn khuất ở đâu đó của một cuộc đời bị bỏ quên. Cuộc đời chưa sống qua. Mỏi mòn. Phô dụng.

Những hình thức mới chỉ phát tán trong cơn điên.

Tôi xây tháp đời bằng những viên gạch nát.

Nghi ngờ là một công thức để sáng tạo.

Thơ là thuốc độc của quỉ.

Anh dám cam đoan mình đã thực sự hiểu toàn vẹn một bài thơ không? Khi mẫu số nó được giải trên những hằng số ảo?

Có những bài thơ kì bí đến mức khi đã kết thúc nhà thơ vẫn còn bị lăng nhục.

Nhà thơ có tiểu sử. Chữ có tiểu sử. Tiểu sử của chữ nằm ở phần ghi-chú-rời của nhà thơ.

Thơ của tôi hoang mang. Nó là quá trình của đột biến chậm.

Qui ước duy nhất của thơ là thơ không bao giờ có qui ước.

Khó hiểu duy nhất của tôi là tôi rất dễ hiểu. Vậy mà không ai chịu hiểu điều ấy.

Tôi thuộc về bản chất của hoài nghi.

Thơ dò tìm đường sóng não chạy trên ý nghĩ. Những vệt sáng phát lộ với biểu đồ ngôn ngữ.

Nghĩa, Hình ảnh, Ngôn ngữ chỉ là những mảnh vỡ của thơ. Thơ khoảnh khắc phụt sáng từ biên giới tối tâm thức.

Thơ sự đứt đoạn và chết lặng trong đời sống không ngừng cuồng nộ trôi chảy.

Thơ thật sự là ngôn ngữ như bị đứt rời, dã man, thống đoạt còn để lại cuống rễ trong tâm hồn.

Tâm thế viết có thể mới nhưng tư thế viết mãi mãi cũ.

Mãi mãi tôi chưa bao giờ làm định nghĩa thơ bởi suốt đời tôi chỉ nguyện đi tìm định nghĩa thơ.

Khi anh đã tìm được định nghĩa thế nào là thơ thì lúc ấy thơ đã chết.

Nghệ thuật là cuộc đảo chánh các thế hệ.

(…)

(Trích thi phẩm “Vỉa từ”  của Nguyễn Hữu Hồng Minh. Nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành 2017). 

NHHM 

 

 

Chưa có bình luận.

Bình luận bài viết (0)