VĂN HÓA

Joseph Brodsky - Hoàng Ngọc Biên: Thơ, âm vực và im lặng

Nguyễn Hữu Hồng Minh • 02-10-2019 • Lượt xem: 11027
Joseph Brodsky - Hoàng Ngọc Biên: Thơ, âm vực và im lặng

Ở Sài Gòn những năm đầu thập niên 1990 những ai làm công việc viết lách, xuất bản, có in ấn chút chút đều biết các họa sĩ trình bày khá nổi tiếng như Nhã Bình, Đỗ Trung Quân, Kim Lan, Cao Tuân… và một vài tên tuổi khác. Họ đều là những học trò xuất sắc của họa sĩ Hoàng Ngọc Biên.

Tin, bài liên quan:

Dư Thị Hoàn, 'du nữ ngâm' giữa rừng thiêng núi thẳm

Xuân Quỳnh, tiếng thơ nghìn mảnh vỡ

‘Ngọn gió phiêu du’ của nữ sĩ Doãn Linh

1. Nếu tôi không lầm thì với tư cách một họa sĩ ông được biết nhiều hơn sau 1975, ít ra là với thế hệ của chúng tôi. Một thời điểm mà văn chương bị soi mói, xét nét đến từng chữ vì sợ sai quan điểm. Tất cả như mặc chung một đồng phục và xướng họa chung một dàn đồng ca. Thành thử tác phẩm nhợt nhạt, minh họa, vô thưởng vô phạt.

Nhớ lại, khi chúng tôi tổ chức bản thảo thi phẩm “Bỏ hoa về phố” (Nxb Trẻ) tập trung những bài thơ, sáng tác sinh viên những cây bút nổi tiếng lúc đó nhóm chủ trương nhờ nhà thơ Đỗ Trung Quân làm bìa. Anh đã vẽ cho tập thơ một chiếc áo khá đẹp. Khi hỏi về việc trình bày sách, anh giới thiệu bọn tôi gặp họa sĩ Nhã Bình. Một sớm chủ nhật cùng với một cây bút đàn anh khoa Văn, học trên một khóa chở tôi ôm chồng bản thảo đã được biên tập viên nhà xuất bản ký duyệt lơ ngơ đi tìm nhà anh Bình. Đến nơi đã thấy Hoàng Ngọc Biên ngồi lơ đãng uống trà và cả hai đang cùng xem những portrait picture vẽ nét. Một trong những bức họa ấn tượng đó sau này tôi bắt gặp nằm trên bìa tập thơ biểu hiện Đông Âu trong bộ “Tư liệu thơ” do nhà xuất bản Trình Bày in từ Mỹ gửi về Sài Gòn mà may mắn tôi được họa sĩ Nguyễn Tri Phương Đông cho xem.

Chân dung thi sĩ Joseph Brodsky

2. Và thật, cho đến trước cuộc gặp gỡ tình cờ đó với Hoàng Ngọc Biên tôi cũng chỉ biết đến ông như một họa sĩ trình bày khét tiếng. Không kể mảng vẽ minh họa, design, những manchette của tờ báo, tạp chí lớn như Thanh Niên, Cửa Việt và cả Tuổi Trẻ giai đoạn đầu đều do một tay ông thiết kế. Ông là người khéo tay, tài hoa và có rất nhiều ý tưởng. Thành thử nếu đã cầm trên tay một cuốn sách, tạp chí ông thiết kế, một photography, graphic, một bức vẽ phác chấm phá… người yêu cái đẹp đều bất ngờ, lâng lâng một dư vị cảm xúc rất khó quên. Cho đến một lần lang thang tiệm sách cũ trên đường Nguyễn Đình Chiểu cách nơi hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu vì bảo vệ Pháp giới năm 1963 không xa tôi đã tìm thấy cuốn sách có chiếc bìa ngả màu ố cũ “Marcel Proust. Con người và xã hội” một tiểu luận của ông Hoàng Ngọc Biên do nhà xuất bản Trình Bày phát hành, 1974. Sự đổ vỡ của một thiên đường đã mất qua tác phẩm của Marcel Proust thật khó quên với tôi, bây giờ hiện qua dưới ngòi bút ông khiến cho tôi thấy thật thân quen. Thì ra ông là người chủ trương giới thiệu trào lưu Tiểu thuyết mới vào Sài Gòn trước 1975. Vai trò dẫn đường đó thật chông gai. Quan điểm của Marcel Proust đến nay vẫn rất mới so với trình trạng viết lách nhảy lò cò bắt cóc "hiện thực” ở Việt Nam khi nhà văn chủ trương tách bỏ thực tại để tìm một thế giới khác ngoài tâm thức, xây dựng thế giới mới của những giấc mơ, huyền ảo: "Mơ tưởng đời mình vẫn hơn là sống thật cuộc đời ấy, cho dù rằng có sống thật đi nữa, thì cũng hãy còn mơ tưởng nó”. (Il vaut mieux rêver sa vie que la vivre, encore que la vivre ce soit encore la rêver). Tôi biết ngoài mỹ thuật, Hoàng Ngọc Biên là một người ý thức cái mới, sự khác lạ của văn nghệ. Ông không thuộc về số đông.

Nhà thơ, dịch giả Hoàng Ngọc Biên


3. Chính vì muốn theo đuổi cái ý thức mới, mà cũng theo cách biểu hiện của M.Proust là “thực tại đích thực ở nội tâm” như một đường bay lạ và đẹp ấy, tôi đã chủ tâm tìm đọc những trước tác của Hoàng Ngọc Biên. Để tôi gặp được cuốn sách quan trọng. Thi phẩm "Tĩnh vật và những bài thơ khác" thơ Joseph Brodsky do Hoàng Ngọc Biên tuyển chọn và dịch của nhà xuất bản Thuận Hóa - Huế 1988. Cuốn sách độc đáo đến nỗi tôi không thể quên cảm nghĩ lúc đó là làm thơ thật vĩ đại, in thơ thật sang trọng và không có danh vị nào tuyệt vời đẹp đẽ như nhà thơ. Hoàng Ngọc Biên không chỉ dịch tập thơ này mà ông còn trình bày, thiết kế. Thời điểm đó Joseph Brodsky vừa được nhận giải Nobel 1987. Và ở Sài Gòn, đây là thi phẩm đầu tiên của Thi sĩ được chuyển ngữ. Vừa văn học lại vừa thời sự tính.
Tôi thích Joseph Brodsky (1940 - 1996) vì ông là một nạn nhân của xã hội liên bang Xô Viết thời đó. Thi sĩ từng bị khép vào tội ăn bám xã hội và bị đưa đi lưu đày 5 năm ở miền Bắc nước Nga. Điều thú vị vấn đề Brodsky đặt ra là có nhà thơ nào trên thế giới này mà không bị xếp vào tội ăn bám xã hội?

Bài thơ ông viết tưởng niệm 100 năm ngày sinh Anna Akhmatova, Hoàng Ngọc Biên đã dịch đầy gợi cảm, những u uẩn và dự phóng:

 

“Một trang giấy và lửa, hạt và những phiến đá xay,
lưỡi bén của một chiếc búa tạ và mớ tóc cắt ngang –
Chúa giữ lại mọi thứ, đặc biệt là những lời
tha thứ và tình yêu, như tiếng nói của riêng mình.

Trong lời nói ấy một mạch đập tả tơi, tiếng xương vỡ khô khốc,
trong lời nói ấy cái mai kẻ đào huyệt giã nát, đơn điệu và ít nhiều âm ỉ,
bởi con người chỉ có mỗi một đời sống, lời nói từ đôi môi sinh tử
vang rõ hơn từ bông tơ trên bầu trời thế gian.

Hỡi hồn thiêng, từ bao biển khơi ta xin cúi mình ngưỡng mộ ngươi
đã có công tìm ra chúng – ngươi và phần người mục nát của ngươi
đang ngủ yên trong chỗ đất quê hương, nhờ có ngươi mà
con người còn nhận được lời nói giữa thế giới câm điếc này…”

 

Văn học Nga một thời rực rỡ với những tên tuổi đối kháng. Như Dostoevsky với Tội ác và hình phạt, Hồi ký Nhà chết... Ông đã nhìn ra  "Con người là một sinh vật kỳ lạ. Chỉ mình nó thích nghi được với mọi hoàn cảnh". Hay thi sĩ Boris Pasternak, người đoạt giải Nobel cho tiểu thuyết “Doctor Zhivago” mà ông phải từ chối nhận. Rồi như Solzhenitsyn với Hòn đảo Gulag “Ai tôn thờ bạo lực thì tất phải chơi trò dối trá”. Và ác hiểm hơn, trường hợp cuốn "Gió lại tiếp tục các chuyến đi của nó" của Bukovski, người khai mở ra trào lưu samizdat, công khai góp phần gió bão. Nhà văn bị kết án tù 12 năm.

Trong thơ của Brodsky đầy đủ những cái nhìn trân trối vào sự thật như vậy! Và thực thụ đó là những cái nhìn sâu kín, bí ẩn, hoan nộ. Cái nhìn của đôi mắt đầy cái nhắm. Thơ Joseph Brodsky vĩ đại ở chỗ ông đứng về phía nỗi đau của chúng sinh, chống lại cái ác, sự gian dối đàn áp khủng bố. Và tất nhiên, dịch được những bài thơ đi giữa hai lằn đạn như thế và rất khó. Vô cùng khó. Và đó chính là tài năng của Hoàng Ngọc Biên.

 

 

Thi sĩ Joseph Brodsky và vợ Maria Sozzani

Không chỉ tiếng nói phản kháng, thơ Brodsky còn có nhiều vỉa khác chiều sâu của ngôn ngữ và tâm hồn. Ví dụ như bài “Động từ nguyên mẫu”, Hoàng Ngọc Biên chọn dịch rất độc đáo, mới mẻ. Ngôn ngữ trong bí huyền của không gian sáng tạo thi sĩ đồng lẫn với cuộc đời thường:

 

“Này các bạn man dã, dù ta chưa bao giờ làm chủ ngôn ngữ các bạn,
thứ ngôn ngữ không có đại danh từ cũng chẳng có danh động từ
Ta đã học cách nướng cá thu bọc trong lá dừa 
và thưởng thức chân rùa sống,
phảng phất hương vị thấm chậm. Về chuyện sành món ngon,
ta phải nhìn nhận mấy năm nay,
từ khi biển khơi xô ta dạt về đây, 
quả đã là một cuộc du hành không ngơi nghỉ,
và rốt cuộc ta không còn biết mình đang ở đâu…

 

Đặc biệt là bài thơ dài mang tên “John Donne” của Brodsky viết tặng John Donne nổi tiếng. Một nhân vật lỗi lạc được xem như sứ giả gửi xuống tự Thượng đế hay một nhà tiên tri dân chủ. Bài thơ ảnh hưởng nhiều đến các thi sĩ về thi pháp của cái mới. “Con người không phải là một hòn đảo, không chỉ là tự mình; mỗi người là một phần của lục địa, một phần của tổng thể; nếu biển cuốn đi dù chỉ một hòn đất thì châu Âu sẽ trở nên ít hơn, cũng như nếu biển cuốn đi cả vùng đất mũi hay ngôi nhà của bạn anh, hay ngôi nhà của riêng anh. Cái chết của mỗi con người làm cho tôi trở thành ít lại vì tôi là một phần của nhân loại, và bởi thế anh đừng bao giờ hỏi chuông nguyện hồn ai: chuông nguyện hồn anh đấy”. Những lời này của John Donne được nhà văn E. Hemingway dùng làm đề từ và tên của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Chuông nguyện hồn ai”.

Và như thế bao nhiêu thơ mộng, bát ngát nở ra từ Tĩnh vật Brodsky.

 

4. Có một điều bí mật về tập thơ “Tĩnh vật và những bài thơ khác” của Joseph Brodsky do Hoàng Ngọc Biên dịch tôi vẫn giữ nguyên cho mình và chưa bao giờ tiết lộ ra. Hôm nay xin kể cùng bạn. Đó là thi phẩm “Tĩnh vật” nằm bất động như một tĩnh vật bị nhét vào dưới kệ sách đại hạ giá Fahasa Nguyễn Huệ vì số phận nó không được mấy ai quan tâm. Đã là sách đại hạ giá cũng chẳng ai thèm mua. Tôi tính khoảng chục cuốn cứ nằm im lìm thế hệt một khối băng. Đôi mắt thơ của Brodsky cứ như luôn gườm gườm tôi mội khi tôi lướt qua nó. Nhưng tôi cũng chỉ có thể mua một cuốn. Thời sinh viên nghèo lắm! Brodsky đã lấy của tôi một tuần nhịn ăn sáng. Và không thể nhịn ăn mãi để đọc sách.

Thơ như nhân phẩm. Có thể đắt đỏ vô cùng và có thể vô cùng rẻ rúng.

 

Chùm thơ Joseph Brodsky (dịch giả Hoàng Ngọc Biên chuyển ngữ)

Định nghĩa thơ

Nhìn lại một lúc cảnh vật
      sau những cánh cửa sổ nơi cúi nhìn xuống
      những người vợ chúng ta,
      những đồng loại chúng ta,
      những nhà thơ.
Nhìn lại cảnh vật
      sau những phần mộ bạn bè chúng ta
      và tuyết chầm chậm bay
      khi tình yêu thách thức chúng ta.
Nhìn lại
      những thác mưa hỗn loạn bò tràn
      trên những cửa kính và làm rối loạn mọi nhịp,
      chữ nghĩa áp đặt nhiệm vụ cho chúng ta.
Nhìn lại
      trên mặt đất thiếu ân cần
      cây thập giá vươn dài những cánh tay cuối cùng
      căng cứng.
Một đêm trăng
      nhìn lại cái bóng dài
      in dáng cây cối và con người.
Một đêm trăng
      nhìn lại những con sóng nặng trên sông
      lấp lánh như những chiếc quần
      đã cũ.
      Thế rồi bình minh tới
Nhìn một lần nữa con đường trăng
      chỗ hiện ra trung đội hành quyết,
Nhìn lại sau cùng
      mặt trời lên giữa những cái gáy xa lạ
      của những người lính.

* Ghi chú: Tưởng nhớ Fédérico Garcia Lorca. Huyền thoại kể lại rằng trước khi bị xử bắn ông nhìn thấy mặt trời đang lên phía trên đầu những người lính. Và bấy giờ ông nói:“-Thế tuy nhiên mặt trời vẫn mọc…”. Đó có lẽ là khởi đầu của một bài thơ mới. (Joseph Brodsky).


Thi sĩ Fédérico Garcia Lorca

 

Những người hành hương

Trước sân vận động và đền miếu,
trước nhà thờ và quán rượu,
trước những nghĩa địa tao nhã
trước những dãy chợ lớn,
trước sự bất hạnh và sự thanh thản,
trước Rome và trước La Mecque,
cháy bỏng dưới nắng xanh mặt trời,
họ đi khắp cùng thế giới
những người hành hương.


Họ là những người què cụt, lưng gù,
là những người đói khát, rách rưới,
trong đôi mắt hoàng hôn say ngủ,
trong trái tim lạc lõng buổi bình minh.
Phía sau họ những sa mạc ca hát,
và những ánh chớp lóe sáng,
trên đường đi của họ những ngôi sao run rẩy
và chim chóc thét vào tai họ
rằng thế giới sẽ không thay đổi.
Không. Nó sẽ không thay đổi.
Tuyết sáng rỡ
dịu dàng mà vô định,
thế giới sẽ không ngừng nói dối,
bất động trong vĩnh cửu của mình
dễ hiểu có lẽ
nhưng tuyệt đối vô hạn.


Vậy thì tại sao tin ở mình?
Tại sao tin ở Thượng đế?
Với con người đó chỉ là sự phỉnh phờ
Chúng ta chỉ còn mỗi
phiêu lưu và ảo tưởng.
Và những hoàng hôn nổi lên mặt đất,
và những bình minh đăng quang mặt đất.
Mặt đất được tưới bằng máu của người lính,
kích động bởi tiếng thét của nhà thơ.

(Hoàng Ngọc Biên chuyển ngữ)