Những chuyến xe ngược tối – Tùy bút Lê Quý Nghi
(Cùng Ngô Thanh Tuyền và Trần Thanh Minh)
1.
Tôi hẹn Tuyền và Minh đúng sáu giờ chiều gặp nhau tại ngã ba cổng Xà Bang, có thể tôi không đi cùng nhưng sẽ ra để đưa tiễn. Tôi đạp xe về nhà mà lòng cứ phân vân! Đợt thi vừa rồi trên Sài Gòn, ít nhứt mình cũng đậu trường Tài Chánh. Bởi so với điểm xét tuyển năm ngoái và đối chiếu với bài giải thì mình làm khá tốt. Tuyền cũng vậy, nhưng không tự tin lắm. Riêng Minh thì nắm chắc…phải thi đợt cuối trường đại học Thủy Sản ngoài Nha Trang! Lúc nộp hồ sơ dự thi, cả ba chúng tôi đều nộp vào trường đó. Tôi rất muốn đi Nha Trang, bởi tôi mê những chuyến đi xa, những vùng miền lạ. Từ nhỏ, tôi chỉ được đi xa, lên Sài Gòn ở hơn một tuần với dì tôi vào dịp nghỉ hè năm lớp tám và lần này là lên thi đại học.
Về đến nhà, tôi thỏ thẽ với mẹ tôi:
– Mạ, con thi trên Sài Gòn khả năng sẽ đậu trường Tài Chánh nhưng lỡ…không đậu thì răng? Hay mạ cho con đi thi thêm trường Thủy Sản, trường ni lấy điểm thấp!
Mẹ tôi tròn mắt:
– Răng khi trưa mi đi thi về nói chắc đậu trường Tài Chánh rồi?
Tôi ấp úng:
– Dạ, cũng còn hơi lo lo! Thằng Tuyền với thằng Minh chiều tối nay đón xe ra Nha Trang thi nữa đó mạ, cho con đi nghe!
Mẹ tôi nghe tôi nói vậy tỏ ra lo hơn cả tôi! Mẹ tôi vào nhà, bàn chuyện với ba tôi. Tôi rón rén vào sau hồi hộp đứng nghe. Ba tôi ít nói nhưng hiểu cái tánh ưa phiêu lãng của tôi. Ba tôi đắn đo một lúc rồi nói với mẹ:
– Em coi còn tiền để đi xe không?
Mẹ tôi vào buồng, một lúc cầm xấp tiền cả chẵn lẫn lẻ ra đếm…
– Còn hơn trăm ngàn, lệ phí thi đóng trước rồi mà từ đây lên Tân Phong đón xe ra tiếp Nha Trang chắc cũng hết hơn bốn chục!
Tôi mừng húm vội xen vào:
– Dạ, rứa được rồi! Có chi còn thằng Tuyền với thằng Minh.
Vậy là tôi xếp vội mấy bộ đồ vào túi vải, sách vỡ cũng chẳng cần đem theo làm gì. Ba tôi chở tôi ra cổng Xà Bang, đã thấy Tuyền với Minh đứng đợi ở đó rồi. Ba tôi cẩn thận dặn dò chúng tôi, bởi đi xa, rồi quay xe về.
Chúng tôi hết đứng lại ngồi, rồi rảo bộ quanh quanh chờ xe. Muốn đón xe ra Nha Trang, chúng tôi phải lên ngã ba Tân Phong, cách nhà hơn hai mươi cây số. Chiều ngày mai phải có mặt tại điểm thi để đăng ký số báo danh, sáng mốt là thi rồi! Giấc này, chỉ có xe đò từ hướng Tân Phong về chớ ít có xe lên, chúng tôi biết vậy nhưng vẫn đợi cầu may, riêng Minh thì sốt ruột! Đến gần tám giờ, có tín hiệu đèn pha ô tô từ hướng Kim Long chạy lên, chúng tôi ùa ra gần sát lòng đường đứng vẫy tay. Ánh đèn xe chầm chậm rồi dừng. Chúng tôi hối hả chạy lại thì…không phải xe đò. Một chiếc xe tải nhỏ! Chú tài xế hạ cửa kính ca-bin nói với xuống:
– Mấy đứa bây đi đâu mà giờ này còn đón xe?
Minh đến sát ca-bin nhanh nhảu nói một hơi:
– Dạ, tụi cháu đi thi đại học ở Nha Trang, muốn đón xe lên ngã ba Tân Phong mà chờ từ chiều tới giờ. Chú có đi đến đó không cho tụi cháu đi với?
Chú tài xế xuống xe, dòm bộ dạng chúng tôi một lúc rồi ra sau mở cửa thùng xe:
– Mấy đứa bây ngồi trong này được không, chớ ca – bin nhỏ xíu sao ngồi cho đủ?
Chúng tôi mừng quýnh cảm ơn rồi đồng thanh “Dạ, được được..! Miễn sao cho tụi cháu lên ngã ba Tân Phong”
Chúng tôi trèo lên thùng xe. Chú tài xế cẩn thận buộc tấm bạt che phía trên cửa thùng lên cho thoáng rồi đóng cửa thùng lại, lộ ánh sáng nhờ nhờ hắt lên từ hai bóng đèn sau đuôi xe. Xe chạy. Xộc vào mũi chúng tôi là mùi hăng hắc cùng với mùi phân gà lãng bãng rất khó chịu. Tôi thử đi sát vào bên trong thì va phải một chồng sọt sắt, chắc đây là xe chở gà! Chúng tôi ra phía sau, đứng tựa cửa thùng xe, hướng mặt ra ngoài trời cho đỡ sặc mùi. Xe ầm ào chạy, con đường phía sau với những hàng cao su hai bên cứ chụm lại, chụm lại… nhỏ dần rồi tan đi trong đêm!

2.
Xe lên đến Tân Phong đã gần chín giờ tối. Chúng tôi vì nhún nhảy trong thùng xe tải theo vũ điệu “ổ gà”, “ổ voi” nên hai chân đứa nào cũng mõi và bụng đói. Trong khi tôi và Minh đứng đón xe thì Tuyền đi quanh mua được ba ổ bánh mì thịt với chai nước suối. Chúng tôi vừa ăn ngấu nghiến vừa dõi mắt chờ xe. Ngã ba này, thường là nơi rước khách của những chuyến xe chạy đường dài. Nãy giờ cũng có vài ba chiếc đỗ lại đón khách nhưng chỉ đi tới Ninh Thuận hay Cam Ranh. Chờ mãi rồi cũng có xe, xe ra…Đà Nẵng. Tôi chạy lại hỏi anh lơ xe:
– Anh ơi, xe có vào thành phố Nha Trang không?
Anh lơ xe vừa kéo vai tôi vừa nói:
– Có, xuống ngã ba Thành.
Tôi rị lại:
– Nhưng ngã ba Thành…ở đâu?
– Ngã ba Thành là…ngã ba… rẽ vào thành phố Nha Trang đó, cách khoảng mười cây số, lên xe đi! – Anh lơ xe giải thích.
Tôi tiếp tục hỏi giá và nói chúng tôi đi những ba người, có bớt không? Giá vé mỗi người bốn mươi ngàn nhưng vì chúng tôi là học sinh đi thi nên nhà xe lấy ba đứa một trăm. Lên xe, chúng tôi tán chuyện qua loa rồi mạnh đứa nào đứa nấy tựa vào lưng ghế mà ngủ.
Gần trưa hôm sau, chúng tôi xuống xe ở ngã ba Thành. Ghé vào quán nước mía dưới gốc cây cổ thụ tán xòe cả một khoảng sân rộng, chúng tôi ngồi uống nước mía…lấy hơi, nhân tiện hỏi thăm đường vào thành phố Nha Trang và về nhà người bác họ của Minh (chẳng là trước khi đi, ba của Minh biên kèm một lá thư để gửi gắm và ghi sẵn địa chỉ nhà người bác ở ngoài bao thư). Cô chủ quán nhiệt tình hướng dẫn. Chúng tôi tiếp tục lên xe…
Lần này là xe Lam, có hai chiếc đậu bên kia đường, ngay khúc cua rẽ vào thành phố. Chúng tôi chọn chiếc xe đã ngồi sẵn mấy em học sinh cấp hai rồi trèo lên, sau khi Minh nói địa chỉ cần đến cho bác tài xế. Có lẽ đã quá trưa, sợ không kịp giờ học nên xe chạy ngay. Chiếc xe Lam nổ lạch phạch, ôm phải nửa vòng cua rồi leo lên con đường đá dăm lởm chởm, bụi đá bốc lên theo mỗi vòng lăn của bánh xe. Đường từ ngã ba Thành vào thành phố Nha Trang lúc bấy giờ đang nâng cấp mở rộng, hai bên đường sỏi đá ngổn ngang. Chiếc xe Lam không xốc lên từng chặp như khi gặp “ổ gà” mà xốc đều, kèm rung, chao…! Ơn trời, qua đoạn đường “cửa ngõ” vào nội ô, xe đều tiếng máy và chạy bon bon.
Qua nhiều cung đường, mấy em học sinh dần dần xuống gần hết. Xe chạy đến một vòng xoay lớn rồi rẽ trái. Xa xa cuối con đường trước mặt tôi là khoảng trời trống, tôi đoán phía đó là biển. Thậm chí, tôi còn ngửi được mùi mằn mặn từ gió thổi lên. Chiếc xe Lam dừng lại, bác tài xế bảo chúng tôi gần đến rồi nhưng xe chạy theo tuyến, không vào con đường nhỏ phía bên kia được. Chúng tôi đành đi bộ vào để tìm nhà. Địa chỉ nhà bác của Minh có tới hai xuyệc, chúng tôi lần dò tìm từng số hẽm. Ngoài mặt tiền đường, nhà cửa san sát nhưng khi vào trong hẽm thì thoáng rộng, thưa thớt kiểu như nhà ở quê, không như ở Sài Gòn.
Đến đúng địa chỉ, Minh lóng ngóng gọi vào qua cánh cổng phủ đầy hoa Ti-gôn:
– Bác Sáu ơi!…bác Sáu!
Gọi đến lần thứ hai thì trong nhà có người đi ra.
Chị khá cao, dáng mảnh như cọng hoa Ti-gôn trước cổng, tôi đoán chị lớn hơn chúng tôi tầm hai hay ba tuổi. Chúng tôi rụt rè chào chị đồng thời Minh giới thiệu với chị sơ qua. Hai chị em con chú bác họ nhưng chưa lần gặp mặt nên có phần ngường ngượng. Chị bẽn lẽn vừa mừng vừa mở cổng. Tôi bâng quơ cho đỡ xa lạ:
– Mai mốt đám cưới chị, khỏi làm cổng hoa!
Chị cười xéo nhìn tôi:
– Tại em…à… tại chị thích hoa đó!
Vào nhà bác Sáu, sau khi thưa hỏi và cất đặt đồ đạc, tôi mới biết chị tên Ti (Tên Ti, tôi ngờ ngợ giống tên gọi ở nhà hơn là tên thật, nhưng tôi ngại nên không dám hỏi thêm). Chị Ti lật đật nấu cơm và làm đồ ăn sau khi biết chúng tôi từ sáng đến giờ chưa có hột nào trong bụng. Ăn cơm xong đã hơn một giờ chiều, chúng tôi phải lên điểm thi để đăng ký số báo danh. Cả ba chúng tôi đều thi chung một điểm. Chị Ti sốt sắng:
– Để chị qua nhà bên mượn thêm chiếc xe đạp, rồi chị dẫn tụi em đi, chớ không biết đường tìm lâu lắm!
Chị Ti chạy qua nhà bên dắt về chiếc xe đạp. Ở nhà sẵn có một chiếc xe đạp của chị rồi. Chị Ti chở Minh chạy trước, tôi chở Tuyền lộc cộc theo sau…
Đăng ký số báo danh xong trời cũng đã chiều chiều, chị Ti vẫn ở đợi trước cổng trường. Tôi dè dặt nói với chị:
– Giờ mình về hả chị? Hay quành quành ra biển một chút, hình như biển cũng gần!
Chị Ti quay qua Minh:
– Sao Minh?
Đương nhiên thằng Minh ô kê rồi. Riêng thằng Tuyền càng thích, bởi hồi trưa trên xe Lam, Tuyền xuýt xoa “Thi xong phải tắm biển Nha Trang một trận cho đã đời rồi mới về!”.
Chúng tôi đi theo hướng dẫn của chị Ti, đạp xe từ cổng trường qua thêm hai cái ngã rẽ, biển gần gần sát lại!
Hai hôm sau, chúng tôi thi xong môn cuối vào buổi trưa. Chị Ti vẫn đi và về đón Minh, còn tôi với Tuyền là chiếc xe đạp mượn của nhà bên cạnh. Về đến nhà bác Sáu, sau bữa cơm trưa, chúng tôi thu xếp hành trang rồi nói lời cảm tạ với gia đình bác Sáu, để về. Chị Ti đứng im như cột, không nói gì. Tôi chỉ dám the hé nhìn mắt chị duềnh buồn khi ra mở cổng. Và, những cánh hoa Ti-gôn vướng đầy trên tóc!

3.
Ra lại ngã ba Thành, tôi với Tuyền và Minh ghé quán nước mía hôm trước, lúc này cũng đã ba bốn giờ chiều. Chúng tôi ngồi uống nước mía và chờ đón xe để về nhà. Nắng thấp, bóng cây Dầu Đôi cổ thụ cứ ngã dần qua phía bên kia đường. Cô chủ quán nhìn chúng tôi mà ái ngại:
– Giờ này, xe chạy vào rất ít, chỉ có xe chạy ra. Tụi cháu ráng ngồi đợi!
Chúng tôi ngồi một lúc nữa. Minh, cái thằng lúc nào cũng sốt ruột:
– Hay tụi mình đón xe ra Quảng Ngãi quê tau luôn, ở chơi mấy ngày rồi về?
Tôi với Tuyền trố mắt:
– Ba đứa mình gom hết còn chưa tới trăm nghìn, không biết đủ tiền vé xe để về nhà không nữa, ra đó rồi sao?
Minh liếng thoắng:
– Không sao, khi về tau tính cho, chớ ngồi đây biết bao giờ mà trời thì tối rồi…?
Vậy là chúng tôi vét tiền ra đếm, được tám mươi sáu nghìn, trả tiền nước mía hết ba nghìn. Bây giờ, chúng tôi chỉ dõi theo những chuyến xe chạy ra! Xe ra khá nhiều, nhưng chờ mãi vẫn không có xe Quảng Ngãi. Cuối cùng, chúng tôi đành đón chuyến xe ra Huế. Ba vé ra Quảng Ngãi là chín mươi nghìn, nhà xe chỉ lấy bằng số tiền mà chúng tôi đang có.
Xe “Hải Âu” màu vàng, dòng xe của Liên Xô cũ. Khi chúng tôi lên thì trong xe đã đầy kín người. Vài ba hàng ghế trước là những cô, những chị, tôi đoán là người đi buôn. Còn phía sau là những học sinh trạc tuổi chúng tôi ôm theo cặp vở, chắc cũng đi thi về. Xe lộc xộc chạy, lắc rung từng chặp. Ba chúng tôi ngồi nén trong băng ghế xẹp lép và nhỏ xíu. Bấy giờ là đêm, đường trống nên xe chạy nhanh…
Tuyền mê xem đá banh. Mấy ngày thi ở Nha Trang, dù đang ôn bài nhưng nó vẫn tranh thủ chạy ra xem với bác Sáu qua cái ti vi mười bảy inche. Tôi với Minh không mê lắm nhưng thi thoảng có chị Ti thì tôi ra xem, giải world cup năm 94. Tôi không biết chị có rành rõi về bóng đá hay không nhưng mỗi khi trận đấu diễn ra, chị rất hào hứng rồi kêu tôi bắt độ. Mặc dù có trận chị không biết ai đá với ai! Vậy mà tôi thua một chầu chè, chưa kịp chung!
Xe lắc lư chạy, tôi mệt mơ màng tựa vào thành xe. Tuyền chồm qua vai tôi nhìn ra cửa kính xuýt xoa:
– Hà Lan với Brasil…hiệp một rồi!
Xe rà thắng, tấp vô lề đường rồi dừng. Bác tài ngoái ra sau nói:
– Khoảng trưa mai mình sẽ đến Huế, bà con nghỉ ngơi một chút, coi đá banh rồi đi tiếp nghe!
Mấy đứa học sinh ngồi băng ghế sau nhao nhao đồng tình. Phía trước, các cô các chị phản đối:
– Banh với bóng, ai đời ngồi đây mà chờ! Chú chạy xe để tụi tui còn về buôn bán nữa chớ, trễ lắm rồi!
Chúng tôi tiu nghỉu khi bác tài không thuyết phục được những người đi buôn, rồi nhấn ga…
Khoảng mươi phút sau, xe lại dừng:
– Bà con mình, ai xuống đi vệ sinh thì đi nghe, rồi xe chạy!
Bác tài mở cửa ca-bin xuống xe, đi vào đám cây um tùm bên vệ đường. Một vài người xuống xe, chúng tôi cũng nhảy xuống. Thằng Tuyền cứ nheo mắt nhìn sang cái ti vi trong quán cà phê bên kia đường. Hơn năm phút trôi qua, bác tài xế không thấy đâu? Mấy đứa học sinh ngồi sau xe lại láo nháo:
– Bác tài đi xem đá banh rồi, không có ai lái xe đâu, xuống xem thôi bà con ơi!
Những người đi buôn ngữa mặt than trời than đất. Có người bảo “Thôi để ông xem cho hết trận, chớ lái xe mà không tập trung tâm trí, nguy hiểm lắm!”. Chúng tôi cùng ùa qua quán cà phê bên kia đường, đương nhiên chỉ đứng bên ngoài quán mà xem.
Trận đấu giữa đội Hà Lan với Brasil! Hình như Brasil thắng 3 – 2 thì phải, tôi không nhớ rõ, chỉ nhớ lúc bác tài xế quay lại xe là nhận ngay một tràng cự nự. Tội, bác tài biết lỗi nên không nói năng gì, lên xe đề máy tiếp tục hành trình!
Gần sáng, xe ra tới Quảng Ngãi. Cũng may quê của Minh không xa quốc lộ, cách khoảng năm hay sáu cây số về phía biển. Chúng tôi xuống xe rồi tiếp tục đi, lần này là…xe bộ! Đường đất sỏi, vắng không bóng ai, sương giăng bảng lãng. Hai bên đường là những vuông lúa đang ngậm sữa, thơm dịu. Trời sáng hẵn, chúng tôi đi đến một nhánh sông nhỏ, phía bên kia là làng của Minh. Minh bảo, ngày xưa đến đây là phải đi đò, nay làm cầu rồi! Cây cầu gỗ rộng hơn một mét, chiều dài tầm hai mười mét, có lan can làm bằng những cây tre tầm vong buộc nối với nhau. Qua bên kia cầu, trước mặt chúng tôi là cái chòi lá, bên trong đang đứng chơi vài đứa nhỏ tầm sáu bảy tuổi. Thấy chúng tôi, tụi nhỏ chạy ra chào hỏi rồi bảo…trả tiền qua cầu, mỗi người năm trăng đồng. Minh trố mắt:
– Là sao…mấy đứa?
– Dạ, cái cầu này do xóm con làm, ba con kêu ra đứng đây thu tiền chớ con không biết!
Chúng tôi bối rối vì đã hết nhẵn tiền. Minh nhỏ nhẹ:
– Thôi, tụi chú lâu mới về nên không biết. Chiều chú đem tiền ra trả nghen!
Mấy đứa nhỏ liếc nhìn rồi cho qua.
Chúng tôi về nhà chú Ba, là chú ruột của Minh. Minh mới xa quê hơn ba năm nên nhớ đường rành rẽ. Những ngày ở quê của Minh, chúng tôi đi khắp, lúc thì theo Minh đi thăm người thân, lúc thì chúng tôi kéo nhau ra đồng lúa. Có lần, khi chúng tôi đang đi trên bờ đê thì bà con chạy lại…dòm ngó:
– Mấy chú là kỹ sư trên tỉnh xuống phải không? Sao lúa mùa này nhiều bệnh quá hì!
Chúng tôi há hốc! Là bởi vì, cả ba đứa tôi ra đồng mà thằng nào cũng tươm tất, áo sơ mi bỏ vào quần rất chi là đạo mạo. Tôi sẵn đà nói dối:
– Dạ, dạ! Để tụi cháu đi khảo sát một vòng rồi quay lại, nghen!
Chúng tôi tiếp tục đi, rồi lẻn luôn một mạch về nhà chú Ba.
Ngày cuối trước khi chúng tôi về, những người bạn thời học chung cấp hai của Minh tổ chức bữa tiệc chia tay, lần này là một chuyến…ghe.
Từ chiều, bạn bè Minh đã chuẩn bị trước: Một rổ mực tươi cùng với ốc sò, can rượu đế, đèn sáp…thêm cây đờn ghi-ta cùng với cái thùng thiếc để gõ làm trống. Chúng tôi khoảng gần mười đứa, lục tục kéo ra bờ sông, lên chiếc ghe của nhà thằng Quý. Ghe đánh bắt xa bờ nên khá to, dài cả chục mét, boong ghe rộng gấp đôi cái hiên nhà. Chúng tôi ngồi bệt trên boong, cùng soạn đồ ra. Thằng Quý lội vô bờ tháo dây neo. Thủy triều đang xuống. Chiếc ghe nhè nhẹ theo dòng, trôi từ từ ra cửa sông. Lúc này, trăng đã lấp ló sau mấy ngọn tre phía bên kia bờ.
Khuya, rượu hết, ghe trôi ra gần cửa biển, đứa nào cũng ngà ngà say. Chúng tôi cảm ơn tình cảm những người bạn cấp hai của Minh rồi giục Quý nổ máy ghe quay lại. Hôm sau, Minh không cùng tôi với Tuyền về mà còn ở chơi.
Bữa cơm trưa được gia đình chú Ba nấu sớm hơn mọi lần. Ăn cơm xong, tôi và Tuyền cảm tạ gia đình chú Ba rồi chia tay. Minh với Đông, là con trai của chú Ba, lấy xe đạp chở hai đứa tôi ra quốc lộ. Chúng tôi lại đón xe. Tuyến Sài Gòn xe chạy vào rất nhiều nên tôi với Tuyền không phải chờ lâu.
Ba giờ sáng, xe đến Tân Phong. Mưa lâm râm, trời se lạnh. Chúng tôi xuống xe chạy vào cái chòi lá gần ngã ba để trú mưa. Giấc này cầm chắc là không có xe để về nhà rồi, ít nhứt phải năm hay sáu giờ! Tạnh mưa, chúng tôi rảo bộ đến ngã ba tính mua gì đó ăn đỡ. Sau một đêm dồng xóc, bụng đứa nào cũng lép kẹp. Hai bên đường, hàng quán vắng ngắt!
Một lúc sau, có ánh đèn xe từ hướng Long Khánh đến ngã ba rồi dừng lại vựa trái cây ngay khúc cua rẽ vào quốc lộ 56, đường này về nhà chúng tôi. Tôi với Tuyến lật đật chạy lại. Là xe khách nhưng không có khách mà chở kín trái cây, chỉ có tài xế! Tôi hỏi thăm. Tài xế bảo đúng là xe sẽ chạy qua chỗ nhà chúng tôi nhưng hôm nay không có chở khách, vả lại, trong xe đã kín trái cây rồi. Tôi năn nỉ:
– Hay là anh cho tụi em ngồi trên mui xe cũng được, tụi em học sinh đi thi về!
Sau khi nhân viên trong vựa bốc thêm mấy sọt trái cây chất lên mui xe, chúng tôi trèo lên mui, ngồi xen giữa mấy cái sọt. Xe lăn bánh, gió lùa sương khuya táp vào mặt, vào người, lạnh cóng! Chúng tôi ngồi co ro quanh mùi trái chín thơm lừng. Tôi hích Tuyền:
– Ê, hình như mùi chôm chôm!
Tuyền nói lập cập như run:
– Ừ, hay mình gỡ vài trái ăn đi, tau cũng thấy đói!
Chúng tôi lần mò hé lớp may bao đậy trên mấy cái sọt, vặt từng trái rón rén ăn. Sau này, tôi cũng từng thưởng thức nhiều loại trái cây nhưng chưa khi nào ngon bằng bữa chôm chôm trên mui xe lạnh buốt ngày ấy!
Tảng sáng, xe về đến ngã ba cổng Xà Bang. Chúng tôi xuống xe, lại ca-bin tính trả tiền. Tài xế không lấy, chỉ cho quá giang. Chúng tôi cảm ơn, tôi rụt rè:
– Hồi nãy ngồi trên mui xe, tụi em có ăn một ít chôm chôm…
Tài xế nhìn chúng tôi cười hiền! Nắng sáng đã rờ rờ mặt đường, chiếc xe tắt đèn pha rồi êm đềm lăn bánh.
————-
(*)Những phụ bản tranh trong bài là của họa sĩ Đinh Trường Chinh.
Lê Quý Nghi
Bình luận bài viết (0)
Bạn cần đăng nhập để bình luận.
Cảm ơn bạn đã đăng ký.
Chúng tôi rất vui khi có bạn đồng hành cùng hành trình lan tỏa những điều tích cực.
Khám phá ngay để bắt đầu trải nghiệm những tính năng tuyệt vời dành riêng cho bạn!
Hậu trường
Âm nhạc
Thời trang
Phim
Họ đã nói
TV Show
Triển lãm
Hội hoạ
Kết nối bạn đọc
Đò đưa
Việt Nam
Thế giới
Chưa có bình luận.