VĂN HÓA

Mùa lúa chét quê tôi

DDVN • 26-06-2023 • Lượt xem: 1512
Mùa lúa chét quê tôi

Có lẽ với nông dân quê tôi, lúa chét chính là thứ đặc ân ông trời ban tặng. Đồng lúa gặt xong rồi, trời đổ xuống mấy trận mưa, sau đó gốc rạ lại đâm chồi cho một vụ mới, hỏi ai không phấn khởi. Nhưng chẳng phải mùa nào cũng thu hoạch được lúa chét.

Cô gái chăn vịt

Cánh đồng vùng rốn lũ quê tôi thường làm vụ đông xuân “gối” qua vụ hè thu. Riêng vụ hè thu hoạch cắt lúa xong rồi bỏ hoang qua 3 tháng mùa mưa lụt, đến cuối tháng 12 mới sạ lại vụ đông xuân. Thời gian ruộng bỏ hoang, từ gốc rạ ra lá non phát triển thành cây lúa rồi “tròn mình” (làm đòng) trổ gié gọi là lúa chét (lúa tái sinh).

Đến bây giờ tôi vẫn không quên những ngày người ta đi cắt lúa chét trên cánh đồng quê đông như hội, sân nhà ai cũng ủ đống lúa to đùng. Tiếng đập lúa ình ình khắp xóm. Và, tôi cũng không thể quên được một người con gái tên Thúy An.

Thúy An theo ba mẹ đem mấy trăm con vịt chạy đồng đến xóm tôi. Miền Tây Nam Bộ, nói vịt chạy đồng thì chẳng ai lạ gì. Nhiều khi nước lên ngập đồng này nhưng các cánh đồng lân cận vẫn còn khô ráo.

Người nuôi vịt phải đem vịt đến mấy cánh đồng chưa ngập vì ở đó thức ăn nhiều, tha hồ vỗ béo. Năm đó cánh đồng quê tôi cắt xong vụ hè - thu, con đập Trà Bông xả rồi mà nước vẫn chưa thấy ngấp nghé.

Thế là hàng chục hộ nuôi vịt tứ xứ đổ xô về, trong đó có gia đình Thúy An. Họ dựng trại, căng chuồng vịt dọc theo bờ kênh, sáng sáng lùa vịt ra đồng cho ăn, chiều lùa vịt về chuồng. Mọi sinh hoạt của mấy con người gói gọn trong cái trại nhỏ xíu cất sát bên chuồng vịt.

Ba Thúy An dựng cái trại vịt gần vàm kênh, cách nhà tôi chừng năm trăm thước. Chiều hôm trước dựng trại, sáng hôm sau Thúy An lùa vịt ra đồng thì tôi thấy có bốn năm thằng con trai cỡ tôi đứng trên bờ kênh dòm lom lom.

Tôi nhớ khi ấy tôi cũng dòm Thúy An nhưng không trơ như bọn kia. Tôi giả đò xách cây cần nhấp ếch đi nhấp dọc bờ kênh, tay thì nhấp nhưng mắt lúc nào cũng lén dõi theo từng cử chỉ của cô gái chăn vịt đồng xinh xắn.

Đến nỗi, con ếch cái già ăn mồi ghì nặng trịch mà tôi cũng quên giựt. Sẩy con ếch bự, mồi cũng hết, tôi xấu hổ như bị người ta bắt quả tang làm chuyện xấu, đành vác cần nhấp về, lòng bực bội không nguyên cớ.

Thời gian sau đó, thỉnh thoảng Thúy An có tới nhà tôi. Khi thì mượn con dao cái búa cho ba cô sửa trại vịt, khi thì đem qua tô canh bí, mớ đọt lang cho nhà tôi, nói là gửi ăn lấy thảo, là xứ lạ quê người có gì nhờ ba má tôi thương tình giúp đỡ.

Má tôi cũng hay sai chị tôi đem qua cho nhà Thúy An mớ đậu mớ cà. Má nói người ta vì hoàn cảnh nên mới xa quê đến đây, mình giúp được gì thì giúp.

Tôi thấy má đúng, nhưng cái việc đem đồ cho gia đình Thúy An thì tôi không bao giờ làm, tôi toàn lấy cớ này cớ nọ để đẩy cho mấy chị tôi đi thôi. Dù mỗi lần đùn đẩy xong rồi, lòng lại tiếc ngẩn tiếc ngơ.

Lúa chét không mất công chăm sóc, đầu tư vẫn cho năng suất khá - Ảnh: Nguyễn Hòe

Nhớ mùa lúa chét

Tôi nhớ năm đó, đợi đến rằm tháng tám chưa thấy nước lên đồng mặc dù các đập đã xả từ lâu. Bầy vịt của Thúy An được dịp ăn mồi đã đời, con nào con nấy ú quây. Ba Thúy An hay đến nhà tôi nhậu với ba tôi.

Ngà ngà say ông bảo, trời thương tôi anh à, tự nhiên chạy tới cánh đồng này rồi vịt ăn hoài không hết. Nước xăm xắp kiểu này dù có năm ngàn con vịt cũng no mồi nữa chứ đừng nói mấy trăm con như tôi.

Vài bữa nữa tôi bán bầy vịt này, về quê cất được cái nhà luôn anh ơi... Ba tôi nghe, chỉ cười nhẹ, trầm ngâm không nói gì, lại rót rượu và uống. Tôi ngồi trước sân, nhìn Thúy An lùa vịt về chuồng, đôi chân em thoăn thoắt, dáng uyển chuyển như đang bước trên cung mây.

Như đã nói, nước lên chậm, cánh đồng quê tôi lại được trời ban tặng cho một món quà quý, đó là lúa chét. Lúa chét còn gọi là lúa tái sinh, chúng mọc từ mầm ủ trong thân cây lúa (gốc rạ) sau khi thu hoạch vụ trước.

Đoán chừng nước không lên cao, bà con xóm tôi liền kéo nhau ra “bẹo cờ” mấy công đất để không cho vịt vào ăn nữa, dưỡng lúa chét. Ba má tôi cũng “bẹo cờ” đất nhà, lại mướn thêm mấy mẫu đất với hy vọng thu hoạch một vụ lúa chét bội thu. Nói chung trong xóm ai cũng phấn khởi.

Chỉ riêng mấy gia đình nuôi vịt chạy đồng như Thúy An là rầu, bởi lúc này nhìn đâu đâu trên đồng cũng thấy cờ bẹo trắng xóa, không biết lùa vịt đi đâu cho ăn. Ba Thúy An cũng ít tới nhà tôi nhậu như lúc trước.

Thỉnh thoảng ông có ghé nhà chơi thì ba tôi cũng nói bóng gió, đại loại là mấy công đất trước cửa nhà tôi đã mua lại của người ta với giá bao nhiêu, đã “bẹo cờ” hết rồi, để mai mốt cắt lúa chét. Ba tôi nói phải canh giữ kỹ nếu không vịt vô ăn là coi như nhà tôi lỗ vốn. Tôi thấy ba Thúy An không nói gì, chỉ gượng cười rồi quay đi.

Mỗi tảng sáng, Thúy An không còn lùa vịt ngang qua cánh đồng trước cửa nhà tôi nữa, mà lùa qua con rạch phía sau hè, lùa miệt vô đồng sâu, đến tối mịt mới về. Mấy lần tôi giả đò đi cắm câu ở đồng sâu, giả đò tình cờ gặp Thúy An đang ngồi gỡ tóc rối dưới hàng cây còng rợp bóng.

Tôi lân la tới hỏi Thúy An ăn cơm chưa, hỏi lùa vịt đi xa vậy có mệt không, hỏi sao ít thấy ba ra đồng mà toàn là Thúy An đi... Thúy An nhìn tôi cười buồn, cái răng khểnh và lúm đồng tiền của cô làm tôi bối rối. Cô nói ba cô đang tìm thương lái để bán bầy vịt. Rằng nay mai cả nhà cô sẽ về quê bên Đồng Tháp.

Thúy An kể ba cô bảo chắc sẽ không nuôi vịt chạy đồng nữa, nghề này bấp bênh quá, rằng ba cô sẽ về sửa lại cái nhà, rồi đi làm thợ mộc. Còn cô thì ba má cũng gả sớm thôi, có mấy mối dạm lời mà ba má còn đang suy nghĩ...

Tôi không còn nghe rõ Thúy An nói những gì sau đó nữa. Trong tôi dậy lên nỗi buồn. Tôi bỏ chạy ra cánh đồng trơ gốc rạ, chạy trên những vạt đê lởm chởm đất khô, lội băng qua mấy con kênh nước đục ngầu.

Tôi không biết đang chạy đi đâu. Tới khi hai bàn chân tôi rướm máu, tôi mới nằm vật xuống một đống rơm khô và khóc như đứa trẻ, khóc cho đến khi những vệt trăng loang lổ cánh đồng, mới lững thững về nhà.

Nhớ mùa lúa chét

Tôi nhớ năm đó, đợi đến rằm tháng tám chưa thấy nước lên đồng mặc dù các đập đã xả từ lâu. Bầy vịt của Thúy An được dịp ăn mồi đã đời, con nào con nấy ú quây. Ba Thúy An hay đến nhà tôi nhậu với ba tôi.

Ngà ngà say ông bảo, trời thương tôi anh à, tự nhiên chạy tới cánh đồng này rồi vịt ăn hoài không hết. Nước xăm xắp kiểu này dù có năm ngàn con vịt cũng no mồi nữa chứ đừng nói mấy trăm con như tôi.

Vài bữa nữa tôi bán bầy vịt này, về quê cất được cái nhà luôn anh ơi... Ba tôi nghe, chỉ cười nhẹ, trầm ngâm không nói gì, lại rót rượu và uống. Tôi ngồi trước sân, nhìn Thúy An lùa vịt về chuồng, đôi chân em thoăn thoắt, dáng uyển chuyển như đang bước trên cung mây.

Như đã nói, nước lên chậm, cánh đồng quê tôi lại được trời ban tặng cho một món quà quý, đó là lúa chét. Lúa chét còn gọi là lúa tái sinh, chúng mọc từ mầm ủ trong thân cây lúa (gốc rạ) sau khi thu hoạch vụ trước.

Đoán chừng nước không lên cao, bà con xóm tôi liền kéo nhau ra “bẹo cờ” mấy công đất để không cho vịt vào ăn nữa, dưỡng lúa chét. Ba má tôi cũng “bẹo cờ” đất nhà, lại mướn thêm mấy mẫu đất với hy vọng thu hoạch một vụ lúa chét bội thu. Nói chung trong xóm ai cũng phấn khởi.

Chỉ riêng mấy gia đình nuôi vịt chạy đồng như Thúy An là rầu, bởi lúc này nhìn đâu đâu trên đồng cũng thấy cờ bẹo trắng xóa, không biết lùa vịt đi đâu cho ăn. Ba Thúy An cũng ít tới nhà tôi nhậu như lúc trước.

Thỉnh thoảng ông có ghé nhà chơi thì ba tôi cũng nói bóng gió, đại loại là mấy công đất trước cửa nhà tôi đã mua lại của người ta với giá bao nhiêu, đã “bẹo cờ” hết rồi, để mai mốt cắt lúa chét. Ba tôi nói phải canh giữ kỹ nếu không vịt vô ăn là coi như nhà tôi lỗ vốn. Tôi thấy ba Thúy An không nói gì, chỉ gượng cười rồi quay đi.

Mỗi tảng sáng, Thúy An không còn lùa vịt ngang qua cánh đồng trước cửa nhà tôi nữa, mà lùa qua con rạch phía sau hè, lùa miệt vô đồng sâu, đến tối mịt mới về. Mấy lần tôi giả đò đi cắm câu ở đồng sâu, giả đò tình cờ gặp Thúy An đang ngồi gỡ tóc rối dưới hàng cây còng rợp bóng.

Tôi lân la tới hỏi Thúy An ăn cơm chưa, hỏi lùa vịt đi xa vậy có mệt không, hỏi sao ít thấy ba ra đồng mà toàn là Thúy An đi... Thúy An nhìn tôi cười buồn, cái răng khểnh và lúm đồng tiền của cô làm tôi bối rối. Cô nói ba cô đang tìm thương lái để bán bầy vịt. Rằng nay mai cả nhà cô sẽ về quê bên Đồng Tháp.

Thúy An kể ba cô bảo chắc sẽ không nuôi vịt chạy đồng nữa, nghề này bấp bênh quá, rằng ba cô sẽ về sửa lại cái nhà, rồi đi làm thợ mộc. Còn cô thì ba má cũng gả sớm thôi, có mấy mối dạm lời mà ba má còn đang suy nghĩ...

Tôi không còn nghe rõ Thúy An nói những gì sau đó nữa. Trong tôi dậy lên nỗi buồn. Tôi bỏ chạy ra cánh đồng trơ gốc rạ, chạy trên những vạt đê lởm chởm đất khô, lội băng qua mấy con kênh nước đục ngầu.

Tôi không biết đang chạy đi đâu. Tới khi hai bàn chân tôi rướm máu, tôi mới nằm vật xuống một đống rơm khô và khóc như đứa trẻ, khóc cho đến khi những vệt trăng loang lổ cánh đồng, mới lững thững về nhà.

Theo Nhà văn Trương Chí Hùng/1thegioi.vn