VĂN HÓA

Giữa thi pháp Nguyễn Quang Thiều và Thanh Tâm Tuyền

Nguyễn Hữu Hồng Minh • 29-10-2019 • Lượt xem: 5593
Giữa thi pháp Nguyễn Quang Thiều và Thanh Tâm Tuyền

Đổi mới thơ là một khao khát mãnh liệt mà không phải nhà thơ nào cũng đủ ý chí và tài năng để đi tới cùng. Trong thơ Việt Nam Hậu chiến, tôi có so sánh về thi pháp của Nguyễn Quang Thiều và Thanh Tâm Tuyền trên trục tuyến tính, cả hai đều đã tạo ra những ảnh hưởng nhất định trong thơ Việt hiện đại.

Tin, bài liên quan:

Joseph Brodsky - Hoàng Ngọc Biên: Thơ, âm vực và im lặng

Nhà thơ Nguyệt Phạm ‘Phơi riêng tư’ sau 11 năm

Dư Thị Hoàn, 'du nữ ngâm' giữa rừng thiêng núi thẳm

Xuân Quỳnh, tiếng thơ nghìn mảnh vỡ

Xét về thi pháp Thanh Tâm Tuyền đã cách mạng đến mức dùng ngôn ngữ đo chấn động cảm giác và loại bỏ nhịp điệu. Như vậy bài thơ đã trở thành một trung tâm địa chấn mà khi bạn đọc rơi vào cùng rung chuyển một tần số, tần sóng tâm hồn.

Chân dung nhà thơ Nguyễn Quang Thiều

Nguyễn Quang Thiều ngược lại, hình thức ngỡ là tự do nhưng dường như thơ vẫn đi trong nhịp điệu, khuôn khổ của truyền thống mặc dù ý tứ, từ ngữ đã tràn bờ dung chứa. Độc giả bị cuốn hút ở chỗ, những bài thơ của ông luôn tuôn trào ào ạt như chuẩn bị, như nung nấu, như sẵn sàng bứt khỏi nhịp ly tâm.

Tuy nhiên, theo tôi, yếu tính hay sức mới mẻ của thơ thực ra không phụ thuộc nhiều lắm ở câu dài hay ngắn mà ở sóng âm dao động! Nguyễn Quang Thiều vẫn luôn tìm tố chất thi sĩ trong đời sống hiện đại trong khi Thanh Tâm Tuyền lại cố tình phá bỏ luôn nó.

Tranh của thi sĩ, họa sĩ Nguyễn Quang Thiều trên ấn phẩm của Liên hoan thơ Quốc tế Medellín Colombia do nhà thơ Fernando Rendón cung cấp

Thành thử hai ông hình thành hai khuynh hướng. Nguyễn Quang Thiều mới mẻ trong nhịp điệu tưởng cũ trong khi Thanh Tâm Tuyền cách mạng về ngôn ngữ.

Hãy đọc tên hai thi phẩm làm “trụ chống” hình thành nên hai trường phái, “Nhịp điệu châu thổ mới” và “Liên đêm mặt trời tìm thấy”. Rõ ràng hơn ai hết, các ông chính là những kẻ hiểu chính mình nhất!

Bìa tạp chí "Viết & Đọc" là tranh của nhà thơ, nhà văn, dịch giả, hoạ sĩ Nguyễn Quang Thiều. Ông cũng là chủ biên tạp chí văn chương này.

Chùm thơ tôi chọn sau đây của Nguyễn Quang Thiều để giới thiệu với bạn đọc DDVN có tên chung “Trong tiếng súng bắn tỉa”. Nhưng trong thơ Việt, ở thời điểm này, tôi nghĩ, ông đang ở một vị trí không ai đủ tầm “bắn tỉa” ông được cả! Chỉ có ông tự bắn vào chính mình mà thôi!...

Tranh của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều

Chùm thơ “Trong tiếng súng bắn tỉa” - Nguyễn Quang Thiều

Những người đàn bà gánh nước sông

Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen tõe ra như móng chân gà mái
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông

Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi
Bàn tay kia bám vào mây trắng

Sông gục mặt vào bờ đất lần đi
Những người đàn ông mang cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Những con cá thiêng quay mặt khóc
Những chiếc phao ngô chết nổi
Những người đàn ông giận dữ, buồn bã và bỏ đi

Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi lăm và nửa đời tôi thấy
Sau những người đàn bà gánh nước sông là lũ trẻ cởi truồng
Chạy theo mẹ và lớn lên
Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến
Con trai lại vác cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi .

1992

Tranh của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều

Sông Đáy

Sông Đáy chảy vào đời tôi

Như mẹ tôi gánh nặng rẽ vào ngõ sau mỗi buổi chiều đi làm về vất vả
Tôi dụi mặt vào lưng áo người đẫm mồ hôi mát một mảnh sông đêm
Năm tháng sống xa quê tôi như người bước hụt
Cơn mơ vang tiếng cá quẫy tuột câu như một tiếng nấc
Âm thầm vỡ trong tôi, âm thầm vỡ cuối nguồn
Tỏa mát cơn đau tôi là tóc mẹ bến mòn đứng đợi
Một cây ngô cuối vụ khô gầy
Suốt đời buồn trong tiếng lá reo.

Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên ngang trời cho tôi được thấy
Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ, nơi những chú bống đến làm tổ được dàn dụa nước mưa sông.

Sông Đáy ơi! chiều nay tôi trở lại
Những cánh buồm cổ tích đã bay xa về một niềm tức tưởi
Em đã mang đôi môi màu dâu chín sang đò một ngày sông vắng nước
Tôi chỉ gặp những bẹ ngô trắng trên bãi
Tôi nhớ áo em tuột rơi trên bến kín một trăng xưa.

Sông Đáy ơi, sông Đáy ơi…chiều nay tôi trở lại
Mẹ tôi đã già như cát bên bờ
Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi
Tôi quì xuống vốc cát ấp vào mặt
Tôi khóc.
Cát từ mặt tôi chảy xuống ròng ròng.

Sông Đáy, 1991.

 

Mái tóc mẹ

Có sợi tóc của Mẹ đêm qua vừa rụng xuống

Một khoảng thời gian của Người lặng lẽ ra đi
Ta hiểu lắm rồi một ngày sẽ đến
Trái tim ta buốt giá âm thầm

Xin dằn vặt trong ta đừng tránh tiếng
Hãy gọi ta về thuở ấy ngây thơ
Ta đã đổi lấy đôi que kẹo kéo
Bằng những sợi tóc của Người rụng xuống đêm đêm

Ôi có phải những lần ta ngang ngược
Những lần ta làm trái lời Người
Những lần ấy tựa cơn gió lạnh
Thổi vào tóc người như gió thổi vào cây

Một ngày mai ta biết ngủ nơi đâu
Ta biết thở bằng gì khi xa hương tóc mẹ
Nỗi buồn ta - mặt đất không cây lá
Ta sẽ bị cô đơn, ta sẽ bị xói mòn

Cho ta đi đôi giày tết bằng hoa buổi sớm
Rón rén về bên giấc ngủ của Người
Lòng nhẹ nhõm mây bay ta nằm vào hồi hộp
Nơi có sợi tóc của Người vừa mới ra đi

18/3/1986

Tranh của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều

Bữa tối

Các con tôi đến trước
Bố mẹ tôi đến sau
Rồi đến tôi

Theo chân tôi là con chó lông vàng và con mèo mướp
Rồi bầy muỗi mùa hạ
Rồi ngọn gió cánh đồng
Rồi vầng trăng trên bầu trời khô hạn

Người cuối cùng là đứa trẻ hàng xóm
Đến và ngồi bên tôi
Con chó gầm gừ cổ họng

Tôi đói những gì không có trong mâm
Bữa tối dọn ở chân trời có chớp.

10/1990

 

Người trồng hoa

Như một nghi lễ
Một kẻ trồng những khóm hồng
Bằng những dụng cụ làm vườn rất đẹp

Khóm hồng trổ hoa
Kẻ đó làm nghi lễ cắt những bông hồng
Trong một sáng Chủ nhật

Và một nghi lễ thực hiện buổi tối
Rượu vang và cá hồi
Để tôn vinh vẻ đẹp hoa hồng

Lúc đó trên cánh đồng rộng lớn
Một người trồng hoa khác
Như một kẻ điên
Đang nhổ từng khóm hồng
Để tìm một người
Bị giết trong đêm tối
Xác vùi dưới một khóm hoa

5.2015

Nguyễn Quang Thiều đang nhìn độc giả "Trong tiếng súng bắn tỉa"

Trong tiếng súng bắn tỉa

( Tặng LMK và BN )

Tiếng súng bắn tỉa lần thứ nhất vang lên
Tôi lau nước mắt người đàn bà góa bụa
Rồi khoác áo lên vai ra khỏi ngôi nhà

Tôi đi theo những ngọn gió không mùa
Trong tiếng khóc khàn khàn của cánh đồng khô hạn
Những vết nẻ ngoặm chân tôi và nuốt
Gió đang vặt lông từng đám mây vàng

Người đàn bà góa bụa nhặt nhạnh những gì tôi không bỏ lại
Vạch áo xem trộm vú mình trong góc bếp đầy rơm
Rồi bước ra sân không gọi ai, không gọi tôi, chỉ gọi con chó
Con chó liếm lưỡi hôi lên ký ức buồn

Tiếng súng bắn tỉa lần thứ hai vang lên từ mơ hồ, êm ái
Đạn xuyên táo nỗi buồn ngu ngơ, niềm sung sướng dại khờ
Tôi dứt tóc xanh nhai trong miệng đắng
Trong cơn mê tôi ăn hết tóc mình

Sau lưng tôi dâng lên mùi khói rơm tươi, mùi châu chấu nướng
Tiếng nước tắm cô đơn chảy xuống cống ao làng
Tiếng súng âm âm trên cánh đồng xứ sở
ánh sáng đâu đây gục ngã âm thầm

Tiếng đạn lên nòng lần thứ ba như tiếng bày đĩa bát
Tôi ngồi vào chiếc ghế của tầm bắn tỉa dịu dàng sao
Những ngọn gió không mùa nổi lên một bầy ngựa trắng
Dựng tóc tôi thành một lá cờ.


1993

 

Con bống đen đẻ trứng

( Bày cơn mơ lên mảnh đất cuối cùng )
Cho hai con Thuật, Ngân.
Cha đã mơ và thấy...

I
Không giờ
Không phút
Không giây
Điểm chết thời gian
Đo bằng hơi thở linh hồn
Mẩu âm thanh cuối cùng
Buổi cầu kinh thế kỷ
Thời gian
Rụng xuống
Chiếc lông chót của cái đuôi hoan lạc
Thời gian
Tắt lặng
Lời khóc than của bệnh điên ánh sáng
Dội tiếng vỗ tay cuồng nộ lần thứ nhất
Sự hoan lạc cơn viêm xoang khổng lồ
Ăn rỗng từng vòm đức hạnh

Không giờ, không phút
kém một giây
Ký ức đau thương ném vào hàm nghiến mệt mỏi
Ta bay về những vùng sáng đặc
Ta vỗ cánh
Bầy dơi ngày thứ nhất
Ta vỗ cánh
Đàn thiên nga sinh nở
Ta vỗ cánh
Bầy rắn nước thế kỷ XX
Ta vỗ cánh
Những khớp xương nham thạch chảy nước miếng, hú gọi
Ta vỗ cánh
Bài hát đưa tang của bầy sói rừng sâu

Chuông rền rĩ
Trong những chóp nhà thờ
Bầy ốc vặn phủ rêu
Lửa cháy rực từng quầng trên cỏ
Lũ chuồn chuồn hừng hực bay đi
Những vòm cây tự xé rách lưỡi mình
Trong cơn ngứa ăn nhầm ánh sáng
Những dòng sông tự cào tướp họng
Cơn buồn nôn những bến giả không thuyền
Những hồ nước thủ dâm đục sóng
Trước loài sen đổi giới tính thay mùa
Những trái cây tự rơi vào thuốc độc
Cự tuyệt hàm răng nham nhở lý do
Và những đền chùa gục ngã
Trước những pho kinh phản bội bồ đề

Những bóng đèn trong đêm
Nổ bục con ngươi
Những mặt hình tivi
Ào ào mất máu
Những chiếc caravat
Phát bệnh điên v vb
dứt tóc dọc hành lang
Những đôi giày da đen mỹ mãn
Há hốc mồm hôi hám quầng thâm
Những con mọt mang hai hàm răng giả
Cắn nát từng miền sách thánh mốc da
Những phòng máy lạnh
Làm cứng đông từng khúc lưỡi mềm

Không kịp quẫy lên cái đuôi vĩnh biệt
Những ô kính tự tát vỡ mặt mình
Những tòa nhà cao tầng tự chặt xương sống mình
Dây vĩ cầm cuối cùng trăng đêm vụt đứt
Bức phông đen tụt xuống loã lồ
Ôi vở kịch cuộc đời...
màn cuối...
Tiếng hề cười
Băm chả những u mê

Tranh của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều

II
Vườn mang thai những quả bưởi non
Trong hăng hắc những mùa quên cúng giỗ
Có ai đó gọi tôi qua linh hồn của ô cửa sổ
Có ai đó gọi tôi dọc linh hồn của những ngõ sâu
Và ai nữa gọi tôi từ nấm mộ ngôi nhà

Tôi đi tìm cha mẹ tôi
Cha mẹ tôi phất chiếc quạt heo may
Ngồi khoan thai trên chiếc xe mây trắng
Một bánh mặt trời
Một bánh mặt trăng
Nóng và lạnh
Đi về nơi gió ngủ
Theo vệt xe tôi tìm khản giọng
Di chúc buồn để lại phía sau mưa

Tôi đi tìm anh chị em tôi
Tất cả lên đường với bầy ngựa nâu
Bờm tung lên từng mùa mây xám
Bầy ngựa lạc trong cánh rừng dòng họ
Anh chị em tôi gieo nhầm những hạt thóc rang

Tôi đi tìm vợ tôi
Người đàn bà cài chiếc cúc đoan trang
Trên chiếc áo của một đời ngủ sượng
Người bỏ lại chiếc khăn sờn ân ái
Và đi, tóc tan hoang, đi mãi
Qua cánh đồng sản phụ
Về một miền sa mạc
Những cát khô thức trắng đợi chờ ...

Tôi đi tìm bạn bè tôi,
Những thi sĩ đêm đêm cởi và buộc
Những bao tải gai ẩm ướt
Đựng những chiếc răng rụng thuở chín, mười
Bạn bè tôi, những mí mắt hoang mang
Sập vội những cánh cửa đá
Những câu thơ yếu thận
Không ghép nổi thuyền
Họ cố vượt qua biển đen số phận
Bằng kiểu bơi chó
Tôi tìm đến, ký ức tôi nằm lại
Hóa vỏ ốc mòn ngậm cát gọi u... oa....

Tôi đi tìm các con tôi
Mắt mượn của nắng
Họng mượn của gió
Chân mượn của nước
Đường mượn của rễ
Quanh các con tôi thế giới đang tự sát
Hai đứa bé không hay vẫn bứt lá vườn
Còn sót lại sau mùa cây sưng phổi
Bày cơn mơ lên mảnh đất cuối cùng

Tôi chạy về ngày mai
Các con tôi chờ tôi ở đó
Tôi bế các con lên
Hai cánh tay tôi
Hai cành cây đã chết đến vỏ
Và lúc đó có một người xuống tóc
Gọi tôi qua những mảnh vỡ tim mình

III
- Cha ơi, cha đưa con về đâu?
- Cha đưa các con về cánh đồng của bà nội
Các con sẽ tìm gom hài cốt
Của những mùa màng tàn tật
Mai táng lại trong đường cày mới
Để oan hồn của cái đói
Đêm đêm không đòi mạng cánh đồng
Và các con sẽ lấy hạt giống thần
Tổ tiên giấu vùi trong cát bát hương
Gieo bí mật xuống cánh đồng góa bụa

- Cha ơi, cha đưa con về đâu?
- Cha đưa các con về sông Đáy.
Dòng họ thuyền đêm qua về đông đủ
Những thuyền chết đậu bến mây
Những thuyền sống đậu bến nước
Những thuyền chưa đẻ thì đang mọc lá

- Cha ơi, có con thuyền thiếu chèo!
- Cha chặt cánh tay cha làm chèo
- Cha ơi,có con thuyền thiếu buồm
- Cha cắt phổi cha làm buồm
- Cha ơi, có con thuyền thiếu dây
- Cha dứt tóc cha bện dây

Các con ơi, ngày mai của ta ơi.
Cha đưa các con về sông Đáy
Con bống bạc đã nổi lên
Ôi con bống tuổi thơ cha khóc đợi
Nơi con bống vàng quẫy đuôi
Ôi con bống nửa đời cha nín đợi
Nơi con bống đen lùa vây khỏi ổ
Con bống suốt đời cha dứt tóc ngóng trông

- Cha ơi, chúng con sẽ ngủ đâu?
- Các con ngủ trong ngôi nhà hai mái của ông nội
Ngọn lửa thiêng triệu triệu năm
Sẽ tự mình thức dậy
Nấu một nồi cơm nếp hoa vàng
Đơm lặng lẽ vào mo cau cổ tích
Và mang ra bến sông
Và thả vào bến sông
Đó là lúc con bống đen
Nổi lên giữa dòng sông Đáy
Đôi mắt sáng hai vầng Nhật - Nguyệt
Đẻ cho ban mai một dải trứng hồng.

(Hà Đông, khuya mồng Một ,tháng Tám năm Giáp Tuất )

N.Q.T.